PHẦN THỨ NHẤT
1. LY LY
Con thuyền nổ máy rời bến khi bình minh le lói ánh hồng trên thành phố. Tiếng máy cố vang lên, khuấy động sự yên tĩnh của một ngày mới, song nó như bị dòng sông cường tráng bụm giữ lại, chỉ còn biết quẫy lộn cuồn cuộn sau lái thuyền, phát ra những tiếng lịch phịch, lịch phịch trên mặt nước, rồi lan dài và tắt lịm khi đến bờ.
Ngồi trong mui thuyền, Ly Ly nhìn lại cảnh vật qua khung cửa hẹp phía sau lái, với tâm trạng của người sắp mất đi những gì thân thuộc, gắn bó với mình. Những cảnh vật trước đây cô quá quen, đến mức xem thường, dửng dưng như của ai đâu, bây giờ, khi sắp mất, tự nhiên cô thấy quí. Cái bến Bạch Đằng buổi sáng với những cụ già mặc quần soọc, áo thun, giày vải, dẻo dai đi những bài quyền. Những chú bé quần đùi, cởi trần la hét chạy tranh nhau quả bóng nhựa. Những em gái đánh cầu lông. Những bà bán bắp, bán xôi luôn tay bốc gói, trao hàng cho dân lao động từ bên kia Thủ Thiêm sang, từ chợ Bến Thành tới, ăn vội vàng rồi đi ngược về phía xưởng Ba Son. Những anh bộ đội vừa chạy vừa hô “một, hai, ba, bốn” vang khắp phố, trong khi những đứa trẻ bụi đời, những người không nhà cửa, hoặc có hoạt động gì ban đêm đó đang nằm co trên các băng đá ngủ vùi… Ly Ly nhớ lại ngày còn bé, buổi chiều theo cha ra bến sông ngồi hóng mát, xem người ta câu cá, ăn mấy cuốn bò bía nóng hổi của chú Ba Tàu, hay con mực khô nướng thơm lừng chấm tương ớt cay cay… Hoặc cùng các bạn trẻ chưa hề quan biết, nhưng là trẻ con ở cùng một thành phố nên rất dễ làm quen, chơi lò cò hay cút bắt đẹp thế… Đã qua rồi… Và Ly Ly lớn lên, và quân Mỹ đến, và ba cô có tiền… Buổi chiều ra đây, cô không còn thiết gì bò bía, coi khinh mực nướng. Cô ngồi dưới những cây dù xanh đỏ, uống bia hộp, xem người ta chơi lướt ván. Rồi cô cũng mặc áo tắm đi lướt ván.Thời thơ ấu hiện lên qua lớp sương mờ tỏ… Rồi… gia đình cô tan nát… ôi, cô không muốn nghĩ tới cái phút giây hãi hùng ấy, không muốn nghĩ tới một chút nào nữa… Ngày xưa, ba má cô và cô cũng sống giản dị như các cụ già, các em bé, như bà bán xôi, bán bắp, như những người lao động bình thường, như em gái đánh cầu lông kia… Cô giống họ ở lòng yêu cuộc sống, yêu buổi ban mai thành phố. Giữa cô với họ, có một cái gì gắn chặt. Vì con người, ai cũng có một trái tim chăng ? Nhưng trái tim cô, đến một lúc nào đó, đã đập quá nhanh, quá gấp và vì vậy mà dần dần cô thành ra con người khác, cho đến bây giờ thì hoàn toàn khác họ rồi… Nhưng những kỷ niệm cứ sống dậy trong lòng cô… im lìm, lặng lẽ nhưng từ đáy sâu vẫn cuồn cuộn, bời bời. Cô vừa ham mê, vừa lo sợ, vừa mong muốn vừa chán chê… Vì cô đã từng là một cô gái buổi sáng đánh cầu lông trên bến sông này, đã từng là em bé, buổi tối ăn bò bía ở bến sông này…
Con thuyền vượt qua vàm rạch Bến Nghé, xuôi về phía cảng. Ly Ly vẫn mải mê nhìn người, nhìn cảnh, như muốn giành lại, giữ lại hết, dù chỉ trong phút chốc thôi. Thoáng hiện ra cái hông sơn đen của một con tàu nước ngoài to tướng, áp sát cảng, rồi Ly Ly thấy những con số để đo mớn nước mờ phai, lem nhem. Không hiểu sao Ly Ly bỗng cúi thấp đầu để nhìn rõ hơn cái hốc sâu ở mũi tàu, nơi treo chiếc mỏ neo to kềnh đang cong hai cánh sắt, nước mặn từ đó chảy xuống làm hoen rỉ lốm đốm màu sơn trằng như những giọt nước mắt mà gió sông lau mãi không khô. Thoáng hiện ra khoảng trống giữa hai tàu, Ly Ly thấy những cọc sắt láng bóng trên cầu cảng để buộc dây đõi tàu, và sâu trong kia, những cửa kho đóng im lìm. Từ chỗ ấy, có thể đi vòng ra cổng kho năm, đổ ra đường cái. Ly Ly chợt bừng dậy ý muốn nhảy lên bờ, trốn trở về với phố phường ồn ào, với những con người chưa quen nhưng rất thân thương ấy : cụ già đi quyền cước, bà bán xôi bắp, em gái đánh cầu lông, những người Sài Gòn như cô… Nhưng cầu cảng và cửa kho cũng nhanh chóng trôi qua. Rồi lại hiện ra cái đuôi tròn tiếp theo của một con tàu khác, với tên tàu và tên cảng bị che khuất nửa bên kia, những cái tên viết bằng tiếng nước ngoài, với những chữ cái lạ lẫm mà cô mới thấy sau ngày giải phóng. Ly Ly có cảm giác các chữ ấy, giống cuộc sống mới này, thỉnh thoảng cứ như lộn ngược…
Con thuyền vẫn lao tới và đuôi tàu cứ lùi dần bến cảng và phố phường cứ lùi dần, càng lùi càng nhỏ lại, xa xăm, bồng bềnh trong hơi nước dâng lên từ mặt sông buổi sáng. Trong khi đó thì không gian, trời mây và sông nước lại mở rộng thêm trong tầm mắt của Ly Ly. Cô thấy cột cờ phía đuôi tàu cao dần lên, trên chót, Ly Ly chợt nhận ra lá cờ đỏ sao vàng, cờ chủ quyền của nước sở tại có cảng, đang bay phất phơ trong gió sớm. Ly Ly chợt buông một tiếng thở dài. Tâm trạng cô thật miên man, lộn xộn, miên man như nước sông chảy cuộn và lộn xộn như cái cảnh nối tiếp cứ đều đều hiện lên qua khung cửa hẹp, trói buộc tầm mắt cô. Vừa nửa tháng trước đây thôi, có lâu la gì, cô còn là một người như ngàn vạn người hàng ngày qua lại trước cổng kho Năm. Cô còn hơn rất nhiều người là đằng khác, những người đang tất bật đi làm thợ hay vất vả đi kiếm sống một cách nào đó. Thật ra, cô không ghen tị với họ. Cuộc sống của họ vất vả lắm, có gì mà ghen tị. Có thể họ còn thèm muốn được như cô, chiều chiều ăn mặc đúng mốt, trang điểm phấn son, ngồi sau xe Hon đa 67 của một anh chàng điển trai, phóng vi vu trên đường phố, vào các nhà hàng sang trọng, các tiệm ăn ngon… Bây giờ, cô chỉ thèm được tự do như họ, để cô vẫn được tự do kiếm tiền hàng xấp mà chẳng phải vất vả gì. Cô biết rằng sống như vậy không thể dài lâu. Nhưng cần gì. “Thà một phút huy hoàng rồi sụp tối, còn hơn buồn le lói suốt năm canh”. Cô đã sống theo kiểu đó, kiểu của người chỉ cần biết giành giật mọi thú vui của cuộc sống hiện ra trước mắt hôm nay (ngày xưa, cô còn biết sống cách nào hơn ?) và bây giờ, cô vẫn kiểu sống đó mà theo. Chỉ tiếc là cái “phút huy hoàng” qua đi quá sớm, kể từ đêm xảy ra chuyện ấy, cái đêm đã ghi một bước ngoặt trong cuộc đời cô, cuộc đời mới hăm lăm tuổi xuân mà sao đã nhiều bước ngoặt, đã phải đành “sụp tối”? Chợt một câu hỏi hiện lên, cứ dày và cô, Ly Ly hoang mang nhưng không sao trả lời được : Còn những người cô vừa rất thân thương vừa rất dửng dưng, nhiều khi thương hại nữa, có thật là họ đang “buồn le lói” hay không ? Hay họ đang lặng lẽ chứng minh cái điều ngược lại với cô. Cô thở dài, âm thầm chẳng biết trách ai, sau cái đêm “tai hại”…
Đêm đó trời không trăng. Dãy đèn thủy ngân cao áp trên bờ hắt xuống sông Sài Gòn những vầng sáng trắng xanh, mát dịu, rung rinh trên mặt nước đang rút ròng, chảy dờn dợn. Giờ thiết quân luật vào lúc nửa đêm qua đã lâu. Vườn hoa trống vắng và phố phường yên lặng. Dòng sông như nở rộng ra, lặng lẽ trôi. Ly Ly ngồi trên một chiếc thuyền chèo tay, im lìm tách ra khỏi bờ Thủ Thiêm, cái khu phố của những xưởng đóng tàu và của những người lao động bên kia sông.
Gió khuya thổi nhẹ, phả hơi nước mát của mặt sông vào đôi má cô đã trang điểm lại chút phấn hồng trước khi vào cuộc. Gió mơn man ướp lạnh chiếc cổ tròn và bộ ngực nở trong lần áo pun xanh nhạt, bên ngoài khoác hờ hững chiếc bơ-lu-dông vải gin đã bạc màu, dầu dãi. Gió khuya của dòng sông vẫn lặng lẽ hôn cô gái Sài Gòn, bất kể cô là ai, miễn ban đêm, cô dấn mình trên dòng sông ấy…
Chèo thuyền là một người con trai cao lớn, khỏe mạnh, cũng trong bộ đồ gin, mái tóc để dài, đen kịt. Con thuyền len lỏi trên sông, núp sau bóng đen của những tàu thuyền nhỏ to đang nằm say ngủ, khéo léo nương theo dòng nước trườn về phía Cảng. Mái chèo thong thả quẫy nhẹ, chỉ nghe tiếng re re rất nhỏ khi nó xé nước kéo về phía trước để quạt cái tiếp theo. Con thuyền thoắt ẩn thoắt hiện, vụt qua quãng trống tràn ánh đèn xanh dịu rồi khuất ngay vào bóng đen che mặt nước của một con tàu. Giờ này, những người dân thành phố đang ngủ say sau một ngày mệt nhọc. Chẳng biết có ai nghĩ rằng có một cô gái trẻ đang dầm sương len lỏi trên sông ?
Ly Ly cảm thấy lòng nôn nao, tiếng tim đập cùng tiếng nước bị mái chèo xé ra nhưng không bao giờ rách. Song đầu óc cô lại rất tỉnh táo, đôi mắt tinh với hàng mi giả, cong dài nhìn xuyên đêm tối, tìm hướng chỉ cho con thuyền đi tới. Cô không lầm đường : mục tiêu đã hiện ra trước mắt. Đó là con tàu vạn tấn, mang quốc tịch một nước tư bản trung lập, vừa vào Cảng sáng hôm qua. Cầu cảng chật. Nó được lệnh đậu ngoài phao giữa sông, chờ đến lượt cặp bến, bốc hàng. Đây là một “khách quen” từ nhiều năm trước, từ ngày Mỹ rút quân để “Việt Nam hóa” chiến tranh. Tin nó vào cảng được báo ngay… Ly Ly được người ta tìm ra và được chọn ! Ngay tối hôm ấy, cô phải đi “bắt mối”. Và cô đã gặp may…
Tuy nhiên, đêm nay Ly Ly cảm thấy hồi hộp hơn đêm trước. Vì đây là một áp phe lớn đầu tiên của cô, sau ngày giải phóng. Ba bốn năm nay, cái “nghề” của cô vẫn tồn tại và biến tướng sang hình thức khoác xoay quanh những “thùng đồ” từ ngoại quốc gửi về. Còn trước đây, “nghề” của cô quả là “trúng mánh” và không vất vả gì cho lắm. Cô thường “bắt mối” trên bờ. Ly Ly chỉ có việc gặp “khách hàng” ở một nơi định trước, hẹn ngày giờ, cách thức… Thế là xong. Cô được trả tiền cho công việc đó. Mà phải nói là rất nhiều tiền. “Bắt mối”, rồi moi rút hàng viên trợ Mỹ và các loại hàng nhập cảng khác trong chiến tranh, rồi buôn lậu, dắt gái cho các thủy thủ nước ngoài hành lạc ngay trên tàu của họ nữa… là một trong những “nghề” do đội quân viễn chinh Mỹ đẻ ra. Biết bao nhiêu chuyện cười ra nước mắt xoay quanh cái “nghề” này. Biết bao con người đã bám vào cái “nghề” này để mà sống và cũng để mà chết, ngay cả khi quân Mỹ đã rút đi. Trong số người đó, có Ly Ly. Cũng như cô, họ vừa là nạn nhân vừa là tội phạm… Còn thủ phạm là ai, là cái gì, họ có bao giờ nghĩ tới ? Bốn năm sau ngày giải phóng, bọn đầu sỏ trong cái “nghề” này đã lần lượt chạy trốn hoặc bị bắt. Chỉ còn lại đám đàn em. Lần này, “số phận” lại chọn đúng Ly Ly. Có lẽ vì cô quen biết “khách hàng cũ”, vì cô trẻ, đẹp, là tay bơi lội có hạng ở “xẹc” Mỹ trước, lại nói thạo tiếng Anh… Tuy vậy, việc này đối với cô vẫn mới mẻ quá. Hơn nữa, “làm ăn” bây giờ rất mạo hiểm và công an cách mạng thì cô chưa lường hết được. Dù sao, đêm qua cũng chỉ là “bắt mối”. Công an có gặp cũng chỉ là phạm luật giới nghiêm. Giây phút nguy hiểm nhất, trèo thang dây lên tàu, chỉ xảy ra trong vài phút. Còn đêm nay, lấy hàng, nếu bị bắt, tang chứng sẽ rành rành…
Chiếc thuyền nhỏ tiến dần về phía con tàu. Ly Ly đã đọc rõ được tên tàu chữ đen trên nền sơn trắng. Và bóng dáng con tàu đồ sộ gần như chiếm hết mặt sông. Ly Ly ái ngại nhìn những ngọn đèn trên tàu thâu đêm vẫn cứ bật sáng, soi rõ những cần cẩu cao lêu nghêu với dây cáp chạy dài cheo chéo, soi rõ đài chỉ huy sơn màu kem sữa với những ô cửa sổ cái tròn, cái vuông, soi rõ boong tàu lặng ngắt, một sự lặng lẽ như rình chụp bắt người. Những ngọn đèn hắt ra một màu vàng quí phái của các tàu buôn viễn dương nước tư bản, những tàu sang trọng và đẹp như một lâu đài. Màu sáng ấy có sức thu hút Ly Ly một cách kỳ lạ, có đánh mạnh vào bản năng người ta như màu hoa thu hút bướm ong, màu cỏ non thu hút chú hươu nhỏ, màu sắc của những món hàng lộng lẫy, có ma lực thu hút và làm chết đuối lòng người… Nó như gần gũi mà như xa vời, như với tay chạm được mà lại như trái cấm. Cô biết rằng nếu cô chạm chân lên boong tàu ấy thì cô sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Từ đây tới đó, khoảng cách rất gần, chỉ cần vượt qua khúc sông đầy ánh sáng, ánh sáng vàng huyền ảo từ con tàu hắt xuống và ánh sáng xanh trắng dịu từ những ngọn đèn trên bờ soi lung linh mặt nước sông.
Có tiếng nổ dòn căng của loại tàu vơ-đét công an tuần cảnh. Ly Ly nghe tim mình đập dồn dập. Mặt cô nóng bừng. Cô đảo mắt nhìn khúc sông, phía trên, phía dưới… Một lúc lâu, tiếng máy nhỏ dần rồi tắt hẳn phía mạn sông dưới kia. Dòng sông trở lại im lìm, lặng lẽ. Chỉ còn nghe sức nước rút ròng chảy mạnh, phát ra những tiếng rít se sẽ khi siết qua sợi cáp neo căng trước mũi một con tàu. Yên tâm trở lại, Ly Ly khoát tay ra hiệu. Chiếc thuyền vọt ngang khoảng sáng, rướn tới, rướn tới một cách lặng lẽ. Vài ba cái quẫy chèo nữa, nó đã nằm trong vùng che khuất dưới hông to tướng của con tàu.
Ly Ly thở phào. Cô lần tay theo thân tàu ướt lạnh, rin rít nước mặn và tanh tanh mùi sơn đến một chỗ chọn sẵn phía đuôi tàu. Cô rút trong áo gin ra một con dao bấm, dùng cán gõ mấy tiếng cách quãng, theo đúng ám hiệu. Rồi cô ngước mặt lên, chờ đợi…
Ít phút sau, một cái thang dây từ bên trên buông xuống, đập nhẹ vào vỏ tàu. Cô đưa tay nắm lấy, giật giật, rút người ướm thử mấy cái. Một lần nữa, cô lại ngước mắt nhìn lên, quan sát. Không thấy gì đáng ngại, cô nhìn người thanh niên, gật đầu một cái rồi bám thang dây thoăn thoắt trèo lên… Cô thầm kiêu hãnh với mình : lần đầu cô “vào nghề” sau giải phóng, nhưng cô có làm gì hại cho “ta” đâu, cô “chơi” bọn “tư bản” mà ! Cô cũng yêu nước chứ ! So với những năm trước, bây giờ cô cũng “cách mạng” đấy chứ ! Ý nghĩ đó làm cô bạo dạn thêm…
Hai bàn tay to, cứng cáp, xốc nách cô, đỡ cô lên sàn tàu. Vừa đứng vững chân, cô bỗng giật mình, bước lùi, thủ thế. Đón cô là một người thủy thủ “tư bản” không quen biết ! Anh ta mỉm cười lịch sự, chìa tay ra, nói tiếng Anh bằng một giọng chưa được sõi :
– Xin chào, cô Ly Ly !
Trong bóng tối khuất sau hai máy tời lớn, Ly Ly nhìn anh ta, tay giấu sau lưng, bước giật lùi :
– Ông là ai ?
Anh ta vẫn cười qua hai hàng ria mép rậm :
– Tôi là bạn của bạn cô.
– Tôi không hiểu.
– Dễ hiểu thôi. Cô cần gặp A-ti-la, phải không nào ? Nó đang đau bụng ở trong kia. Nó bảo tôi ra đón cô. Mời cô theo tôi.
Ly Ly lắc đầu :
– Không. Tôi muốn gặp nó ở đây. Ông đi bảo nó giùm. Tôi cám ơn ông nhiều.
Anh bạn thủy thủ “tư bản” cố thuyết phục :
– Cô Ly Ly, A-ti-la nó ốm rồi, không ra được. Nếu cô muốn, tôi sẽ mang hàng ra đây cho cô.
Ly Ly nghĩ rất nhanh :
– Được ! Ông cứ mang ra tại đây.
Anh ta gật đầu, quay đi. Ly Ly vội đảo mắt nhìn quanh… Nhưng anh ta lại dừng :
– Cô Ly Ly. Cô đưa đô-la cho tôi, tôi mới lấy hàng ra được.
Ly Ly lắc đầu :
– Không. Giao hàng xong, sẽ trả tiền. Như đã thỏa thuận.
– Nhưng mà, nếu không có tiền…
Ly Ly cắt ngang :
– Nếu vậy thì thôi. Chào ông !
Ly Ly bước tới chiếc thang dây. Anh bạn thủy thủ “tư bản” vội nắm tay Ly Ly kéo lại, nhìn khắp người Ly Ly :
– Thôi được, thôi được. Cô đứng đây. Nhưng cô có mang đủ tiền đó không ?
Ly Ly giật tay ra, nói nhanh :
– Tiền để dưới kia (Ly Ly chỉ xuống thuyền). Nhận đủ hàng, bạn tôi sẽ chuyển tiền lên.
Anh ta trợn mắt :
– Nếu nó chở hàng đi mất thì sao ?
Ly Ly cong đôi môi son, cười khinh :
– Tôi còn đứng đây. Tôi đắt giá hơn nhiều chứ ! Bạn tôi đời nào bán tôi để lấy một ít hàng tồi như vậy (cô dịu giọng tươi cười). Đã thỏa thuận rồi mà.
Biết khó mà gạt được Ly Ly, anh ta đổi giọng :
– Nghe đây, cô Ly Ly ! Chúng tôi đã rõ mưu mô của cô và A-ti-la. Nó đã bị nhốt. Còn cô, chúng tôi sẽ bắt cô.
Ly Ly giật mình. Tình thế chuyển biến đột ngột. Tuy nhiên, mấy năm trước đây, trong nghề này, cô đã từng bị bọn Mỹ lừa gạt nhiều lần và cũng đã lừa gạt bọn chúng nhiều phen, đã từng bị đẩy vào những hoàn cảnh hiểm nguy và cuối cùng ra thoát, nên cô không hoang mang, bối rối. Cô liếc nhanh sang đầu chiếc thang dây. Anh bạn thủy thủ “tư bản” nhếch mép cười, bước tới chắn ngang lối xuống :
– Bây giờ ta thỏa thuận một áp phe khác nhé : Cô vào kia với tôi… À, không, không. Cứ ở đây cũng được… Không đến nửa giờ đồng hồ đâu. Rồi tôi để cô ra về. Với một trăm đô la. Một gia tài đấy ! Ô kê chứ ?
Ly Ly rút chiếc dao bấm, bật tách một phát, chĩa mũi dao vào ngực anh ta, chân bước tới chầm chậm. Cò quắc cặp mắt đã được trang điểm khá xinh, nói dằn giọng :
– Tránh ra khỏi đầu thang dây !
Anh bạn thủy thủ “tư bản” cười ra tiếng :
– A ha ! Nên nhớ, cô đang ở trên tàu tôi. Tôi kêu lên một tiếng là người ta sẽ ra tóm cô !
Ly Ly cũng bật cười :
– Nên nhớ là tàu ông đang ở trong cảng tôi. Tôi kêu lên một tiếng là các ông sẽ lôi thôi ngay với công an biên phòng Việt Nam.
Ly Ly giơ ngón tay cái, chỉ qua vài về phía cầu cảng, nơi có những trạm gác biên phòng ở đầu thang của mỗi chiếc tàu cặp bến. Anh bạn thủy thủ “tư bản” dịu giọng :
– Cô sẽ không la. Vì công an đến, tôi sẽ bảo : cô là tên ăn trộm, ban đêm lẻn lên tàu lấy cắp hàng…
Ly Ly nhếch mép cười :
– Đâu có đơn giản như vậy. Tôi sẽ chỉ ông. Vâng, chính ông là người ban đêm dắt kẻ cắp lên tàu.
– Bằng chứng đâu ?
Ly Ly chỉ vào ngực mình :
– Đây thôi ! Tôi không có cánh, không thể bay từ mặt sông lên được. Và kia, cái thang dây. Thang dây của chính tàu ông !
– Dù sao thì cô cũng sẽ bị bắt.
– Còn ông cũng chẳng hơn gì tôi. Tốt hơn là ông nên tránh ra, để tôi đi.
Vừa nói, Ly Ly vừa quả quyết bước đến đầu thang dây.
Anh bạn thủy thủ “tư bản” nhìn cô gái mặt mũi xinh đẹp, má hồng căng, môi đỏ mọng, cặp mắt thăm thẳm đen và sáng dưới hàng mi dài, người chắc lẳn trong bộ đồ gin bó sát cơ thể làm nổi bật lên những đường nét hấp dẫn… Tiếng gọi của bản năng mạnh mẽ quá, dạt dào như nước cuộn dưới dòng sông. Còn lý trí anh ta thì mờ đi như ánh đèn sáng có màu vàng quý phái nhưng bị hai cuộn cáp to tướng, bôi đầy mỡ bò đen kịt của máy tời, che mờ. Anh ta liều mạng xông tới và bất thần đánh bật con dao bấm ra khỏi tay Ly Ly. Anh ta ôm chặt Ly Ly, đè xuống sàn tàu, bên cạnh hai cuộn cáp. Hai người vật nhau trên boong tàu. Song có điều lạ là hai người không một ai kêu lên một tiếng, chỉ vật lộn để tranh nhau cái đầu thang dây. Trong cơn háo thắng, anh ta giật tung hai móc của đầu thang và hất luôn cái thang xuống sông.
Tình thế đã đến lúc nguy hiểm, nhưng Ly Ly không bối rối. Cô chăm chăm nhìn đối thủ. Hai người im lặng. Nghe rõ cả tiếng nước dào dạt dưới lòng sông, dào dạt… Người bạn “tư bản” không kìm lòng được nữa, anh ta nhảy tới vồ lấy Ly Ly. Chỉ chờ có thế, Ly Ly nhanh nhẹn tránh sang một bên và theo đà của anh ta lao tới, liền nắm cổ tay giật bồi. Anh ta ngã nhào trên cuộn cáp tời to tướng. Còn Ly Ly thì chạy ra, vọt người qua thành boong tàu, phóng xuống nước.
Từ thành tàu, Ly Ly rơi hẫng trong khoảng không. Ruột cô thót lại. Thoáng qua một cảm giác hoảng sợ. Cô đã cố ý phóng xa ra, tránh con thuyền của bạn mình bên dưới. Hai tay cô giang rộng cố giảm bớt đà rơi. Cô không dám cắm đầu bổ nhào như khi nhảy trên ván cầu ở “xẹc”. Nguy hiểm lắm. Cô đưa hai chân xuống trước, và khi chạm nước, cô cố chuồi chân, lật người xoay nghiêng cho khỏi chìm sâu. May cho cô, mặt nước ở đây thoáng. Tuy vậy, sức va của mặt nước cũng làm cô tê điếng cả một bên hông. Chiều cao, cao quá. Và lòng sông như níu lấy cô, dìm xuống đáy. Trong đêm yên tĩnh, từ mặt sông bỗng dội lên một tiếng “Ùm”.
Ngay lúc đó, xa dưới kia, phía cầu Tân Thuận, một ánh đèn pha bật sáng, quét qua quét lại trên mặt sông. Và tiếng nổ dòn căng của một chiếc vơ-đét nghe rõ dần. Chiếc vơ-đét xé nước chạy ào tới, mũi tàu vạch lòng sông thành hai vệt nước, tóe sao, sáng lấp lánh dưới ánh đèn. Sóng dồn dập dội vào bờ, lắc các con thuyền đang ngủ say chòng chành, nghiêng ngả.
Từ trong lòng sông Sài Gòn, Ly Ly cố ngoi lên, sặc mấy lần mới ra khỏi mặt nước. Có đuối muốn đứt hơi nhưng vẫn cố lắc mái tóc bồng, đưa tay vuốt mặt, mong tìm thấy con thuyền có bạn mình. Cũng lúc đó, cô bỗng lóa mắt vì ánh đèn quét tới và choáng váng vì tiếng máy tàu quá gần. Chiếc xơ-đét xô đến, tắt máy, lượn gắp một vòng, vây lấy cô. Mấy anh công an giơ tay ra. Nhưng không rõ vì quá đuối hơi hay vì một lý do nào khác mà Ly Ly đành xuôi tay để cho cả thân mình chìm nghỉm trong dòng nước.
Một anh công an vội lao ngay xuống sông, lặn tìm cô gái. Cô cảm thấy người ta túm được cổ áo cô, lôi lên mặt nước. Theo bản năng, cô vội hớp lấy không khí của sự sống còn. Người ta dìu cô đến sát mạn tàu và chật vật lắm mới kéo được cô từ dưới sông lên. Cô nghe loáng thoáng : “Còn sống ?”. Tiếng thở phào và đùa vui : “Chắc cô ta nhầm sông Sài Gòn ngày nay với sông Tiền Đường ngày xưa… !”. Mấy tiếng cười khúc khích. Rồi cô không nhớ gì nữa…
Sau đó, người ta xác định lý lịch cô, biết cô có chân trong một băng ăn cắp và buôn bán hàng lậu. Nhưng tang vật không có, không đủ yếu tố buộc tội. Người ta bèn cho cô “đi học” ở một trường Thanh niên mới huyện Duyên Hải. Nơi có rừng ngập mặn mênh mông. Hôm nay là buổi “Tiễn đưa” cô “học trò mới” đến trường.
Ngồi trên thuyền, Ly Ly nhìn lại mặt nước cuồn cuộn phía sau lái. Đầu óc cô lộn xộn quá, chẳng ra luyến tiếc, ham mê, cũng chẳng ra dửng dưng, chê chán. Chợt một vị gì như mỉa mai, chua chát dâng lên ở cổ cô. Cô nhếch mép cười : Hay thiệt, “ở tù không có án thì được gọi là “đi học tập”, trại giam thì gọi là “nông trường”, “nông trường Bình Minh”. Mấy ông cách mạng thường dùng những chữ thiệt là hay, thiệt là kêu ! Ý nghĩ trước đây lại trở lại trong đầu cô, đặt một dấu hỏi : Thiệt tình họ tin vào điều đó hay họ tự gạt mình và gạt những người khác ? Cô cảm thấy hoang mang. Họ là người đáng thương hay mình là người đáng thương ? Cô không biết nữa.
Con thuyền cứ đều đều tiếng máy, chạy quanh co trong khúc sông ruột ngựa và dường như nó cũng lúng túng, hoang mang. Cái chót cần cẩu kia, Ly Ly nhìn thấy cách đây hơn nửa giờ, vậy mà loanh quanh thật lâu, nó lại chợt hiện ra sau lái tàu, gần như trở về chỗ cũ. Hình như con thuyền cứ chạy mãi mà rồi chẳng đến đâu, lại trở lại chỗ ban đầu trong cảm giác của Ly Ly. Cô cứ miên man trong ý nghĩ, nửa thức nửa ngủ, chìm đi trong tiếng máy lịch phịch tắt nghẹn dưới lòng sông. Chợt cô giật mình sực tỉnh khi nghe tiếng ai đó nói : “Bắt đầu tới rừng Sác rồi !”. Cô mở mắt nhìn qua khe cửa hẹp sau lái. Dòng sông đột nhiên rộng ra, nước xanh biếc và sóng từng lượn nhấp nhô, càng lúc càng xanh, càng lớn. Những cảnh quan đầu tiên của vùng rừng Sác, vùng rừng ngập mặn kỳ lạ và độc đáo của miền nhiệt đới, chợt hiện ra. Là dân Sài Gòn, là người sinh ra ở xứ nhiệt đới, vậy mà đây là lần đầu tiên, Ly Ly mới thấy rừng ngập mặn. Cảm giác rõ ràng mới tinh đối với Ly Ly : nhìn xuống chỉ toàn sông nước, và nhìn ngang, chỉ có cây rừng ! Cây mọc từ nước lên, và nước thì ngập cả rừng cây ! Những cây thấp lè tè vừa mọc lại sau mấy năm bị Mỹ giết hại bằng chất độc hóa học sao mà cằn cỗi, lơ thơ, như tóc mọc lú nhú trên da đầu của một người vừa qua cơn ốm nặng, vừa thấy thương, vừa thấy kinh sợ ; Ly Ly chợt rùng mình tự hỏi : Phải chăng mình bị đưa đi đày khổ sai ở vùng rừng ngập mặn này ! Chẳng lẽ đây là nơi chấm hết hăm lăm tuổi xuân con gái hay sao ?
Sự “sụp tối” sau phút huy hoàng ! Bóng tối, thật ra có phải còn đáng sợ hơn là chút ánh đèn le lói ? Thà rằng “le lói năm canh. Còn hơn…”. Ly Ly lắc đầu không muốn nghĩ tiếp. Ôi tâm hồn cô, nó đã bị ngập chìm trong chất muối mặn của lòng khat khao muốn hưởng trọn ngay cuộc sống, mặn đến nỗi đắm mình trong nó chẳng bao lâu mà tâm hồn cô thành ra chát đắng. Và bây giờ, cô bắt đầu cầm lấy và đưa lên môi để phải uống cạn cái chén chát mặn, đắng cay ấy sao ?
2. NHƯ NGỌC
Cùng đi trên chuyến thuyền này còn có một cô gái khác. Cô không có cái đẹp sắc sảo của Ly Ly, có thể thu hút những người con trai từ ánh mắt ban đầu. Cô có cái đẹp dịu dàng, sáng sủa, khiến người ta tin cậy. Cũng như Ly Ly, cô giống mọi cô gái thường gặp trên đường phố Sài Gòn. Nhưng nếu một người khách lạ cần hỏi thăm đường trong thành phố thì nhìn trong đám đông, người ta sẽ chọn cô và tiến lại gần cô, yên tâm sẽ được cô chỉ dẫn, với lòng ân cần và sự hiểu biết đầy đủ. Cũng khó cắt nghĩa điều đó, song Như Ngọc là một cô gái như vậy. Cô có khuôn mặt tròn, nước da trắng mịn, cặp môi hồng dường như chưa biết tới phấn son. Cô ngồi trên mui thuyền, cặp mắt đen láy cứ ngắm nhìn cảnh vật, mặc cho gió sông đùa nghịch trong mái tóc bồng.
Đây là lần thứ hai cô ra vùng rừng ngập mặn ở huyện Duyên Hải, vì thế cảnh vật đối với cô cũng không phải mới lạ gì. Tuy vậy, lòng cô cũng bâng khuâng, nôn nao như lòng sông tràn rừng Sác, đầy những đợt sóng cuồn cuộn, bạc đầu. Sáng hôm nay, người ra bến sông đưa tiễn là mẹ cô, người mẹ gầy gò, bệnh tật sau nhiều năm bị giam cầm ngoài Côn Đảo. Cô đã tha thiết van nài mẹ đừng ra bến : hơi nước và gió sông buổi sáng lạnh lắm, ngấm vào người mẹ, nó sẽ hành hạ những bắp thịt gầy, những đốt xương nhọn của mẹ, nó rất khách quan và vô tình nhắc cho mẹ nhớ đến bọn đao phủ của nhà tù Mỹ Ngụy ngày xưa. Song mẹ cứ nằng nằng quyết phải đi tiễn con. Mẹ muốn Như Ngọc hiểu để cô càng thêm thiết tha với mong ước cuối cùng của cuộc đời mẹ : làm sao tìm cho ra vết tích, mồ mả và nắm xương tàn của cha cô, đã hy sinh ở vùng rừng Sác trong những năm ác liệt nhất của chiến tranh ! Ôi ước muốn thiêng liêng của mẹ già, cũng là ước muốn cháy bỏng của cô con gái nặng lòng hiếu thảo. Nhiều đêm đang ngủ, cô chợt giật mình tỉnh giấc vì tiếng rên của mẹ trong cơn mê. Cô ghì chặt vào lòng tấm thân gầy của mẹ như muốn truyền hơi ấm hôi hổi của tuổi con gái mình sang. Nước mắt cô rơi trào ra gối. Mẹ đau vì những vết thương cũ, và đau đớn hơn nữa vì : “Con ơi, con ra đấy tìm hài cốt cha con về trong này chôn cất. Để cha con ngâm xương giữa rừng ngập mặn, mẹ cứ lạnh buốt xương cốt, ruột gan !” Như Ngọc tràn nước mắt, đau thắt ruột vì nỗi đau của mẹ và buốt tận xương vì nỗi thương cha.
Con thuyền xé nước, đi sâu vào địa bàn rừng Sác. Như Ngọc phóng mắt nhìn lên bờ. Nước ngập mênh mông. Những cây giá, cây mắm lắc lay chùm lá, ngâm chân cả đời trong nước mặn. Ngày hai lượt, thủy triều rút xuống, đất sinh bày ra, những rễ cây lại chịu đựng ánh nắng thiêu đốt bên trên của mặt trời nhiệt đới và hơi ẩm bốc lên phía dưới của bãi lầy biển Nam. Cha mình hồi xưa đánh Mỹ đã sống trong rừng lầy như vậy. Ngọn cây nào, bãi sình nào trên bờ đó đã in dấu vết của cha ? Cuộc sống kháng chiến gian khổ của cha, mẹ đã kể cho Như Ngọc nghe chẳng biết bao nhiêu lần, kể từ ngày giải phóng mẹ được đón về, mẹ con gặp lại. Nhưng mà thiếu cha ! Lần nào mẹ cũng khóc, cũng nói lên nỗi ước mong nhoi nhói… Năm mới giải phóng, Như Ngọc vừa xong tú tài hai. Đó là công lao nuôi nấng của bà ngoại. Nghe mẹ kể chuyện, Như Ngọc đã nảy ngay ý định mình sẽ ra vùng rừng Sác, tìm lại dấu vết của cha. Nhưng ra bằng cách nào đây ? Giải phóng rồi, con gia đình cách mạng, phải học để thành kỹ sư, bác sĩ chứ ! Vốn thích sinh vật, Như Ngọc chọn : mình sẽ học thủy sản, đi ra biển đánh cá, đi ra huyện Cần Giờ, từ đó mà tìm kiếm tin tức của cha. Mẹ lúc đầu ái ngại cho cô con gái duy nhất, vì cái nghề “chẳng con gái” cho lắm. Bao nhiêu năm trời hoạt động trong lòng địch, bị bắt, sống xa chồng xa con, mẹ cứ muốn có con bên cạnh trong lúc về già. Nhưng Như Ngọc giống cha, có ý chí mạnh mẽ, hễ muốn gì là làm cho bằng được. Cuối cùng, mẹ chiều ý con, để con thi vào ngành thủy sản của trường Đại học nông nghiệp ở Thủ Đức. Mấy năm trời học tập, khi sửa soạn làm luận án tốt nghiệp, cô đã chọn con tôm và xin “đi thực tập” ở vùng rừng Sác. Cũng may cho cô, lúc đó vùng rừng Sác từ chỗ thuộc tỉnh Đồng Nai được nhập về thành phố Hồ Chí Minh và trở thành huyện Duyên Hải. Mấy tháng trước, cô đã theo thầy chủ nhiệm khoa và một số bạn ra Cần Giờ. Cô đã đi theo ghe cào, ghe te, đánh tôm ngoài cửa biển. Cô đã đi theo những đáy thùng, đáy neo, đáy sông cầu… nghiên cứu cách đánh bắt tôm và đời sống con tôm he, có cái tên khoa học là Pe-na-ớtx (penaeus) với nhiều loài khác nhau như tôm sú, tôm nương, tôm lớt… cùng những tên la tinh dài lằng nhằng. Đối với những sinh viên thông minh và chăm chỉ như Như Ngọc thì một bản luận án tốt nghiệp không khó lắm, cái khó là xem giá trị khoa học của nó đến đâu… Cô còn lại một ít thời giờ để làm cái việc mà cô canh cánh : tìm lại dấu vết người cha đã hy sinh thời chống Mỹ giữa vùng rừng ngập mặn. Phải nói rằng cô sinh viên thông minh và làm việc cũng khá khoa học nên cô đã lần ra được cái mối ban đầu. Cô nhớ lại…
Hôm ấy là một ngày chủ nhật, sau chuyến đi theo ghe cào tôm về, buổi sáng, cô một mình đi bộ từ thị trấn ra ấp Miễu Ba, đường dài chừng ba, bốn cây số. Tính cô trầm tĩnh, lặng lẽ, cái tính được bà ngoại dãy cho một cô con gái của người cách mạng đang sống trong lòng địch. Phải dấu nhẹm mọi tông tích. Lâu dần thành thói quen, nên hôm nay cô không rủ chị em nào cùng đi. Chỉ trừ thầy chủ nhiệm, còn với các bạn, cô bảo là cô đi thăm ông bác họ. Ông bác họ ấy là một cán bộ già, đã từng trải qua hai cuộc chống Pháp, rồi chống Mỹ ở vùng rừng Sác nay đang nghỉ chữa bệnh dài hạn trước khi về hưu. Các đồng chí Huyện ủy giới thiệu ông với cô và bảo rằng rất có thể ông biết cha cô. Theo sự chỉ dẫn của các anh, cô đến nhà ông Chín Cường. Cổng nhà bằng tre đan, khép hờ hững. Ngôi nhà gạch nhỏ, cũ kỹ, nằm nép mình trong một miếng vườn hẹp, dưới bóng mát của một cây khế già. Đúng nhà ông đây ! Không gọi cửa, cô nhè nhẹ đẩy cánh cổng đi vào. Cô đi từ tốn, dịu dàng, như một cháu gái nhỏ về quê thăm bác. Cửa gian nhà khép kín nhưng trên hai chiếc đinh khuy, không thấy ống khóa, có lẽ ông già quanh quẩn phía sau vườn. Cô đi vòng qua hông nhà, bỏ chiếc mũ vải trên đầu xuống, cầm nơi tay, mắt nhìn quanh khu vườn trồng mấy hàng mãng cầu ta cao chưa quá đầu người nhưng đang sai trái. Cô không lầm : ông già đang lúi húi chăm bón cho mấy gốc na. Cô ho khẽ trong bàn tay, miệng nở cười, bước đến. Ông già hơi ngoảnh đầu lại hỏi :
– Đứa nào đó bây ?
Chợt nhận ra cô gái lạ, ông phủi tay đứng dậy. Cô tự giới thiệu và nói ngắn gọn mục đích cuộc thăm viếng của mình. Ông già chợt đứng sững, nhìn cô chăm chăm trong giây lát. Bỗng ông chụp tay lên hai vai cô, đẩy cô ra một chút vừa ngả đầu về sau như muốn ngắm cô cho thật kỹ. Ông kêu lên :
– Trời ! Cháu là con gái của anh Tám Võ à ?
Cô gật đầu mà nước mắt chạy vòng quanh. Ông già lập cập bước vào nhà, miệng rối rít :
– Vô đây ! Vô đây cháu ! Trời ơi, con Tám Võ, con Tám Võ…
Ông mở tung cửa trước, cửa sổ, chỉ vào bộ xa-lông gõ cũ kỹ : “Ngồi, cháu ! Ngồi, cháu !” Ông mở tủ kiếng lấy gói trà nhưng rờ đến cái bình thủy thì đã hết nước sôi. Cô nhìn ông già ríu rít tiếp khách, nước mắt cứ rưng rưng nhớ cha. Chắc cha đã sống đẹp, đã để lại cho đồng chí mình những tình cảm đẹp nên giờ đây con được hưởng sự nồng nàn, quí mến này. Cô nói : “Dạ thôi, bác cho cháu nước mưa thôi… !” Ông già bỗng vỗ bàn tay xương xẩu lên mớ tóc bạc : “Ôi, bác lẩm cẩm rồi. Quên cháu là con gái ! Thôi, ra đây, ra đây cháu ! Hai bác cháu mình ngồi dưới gốc khế này nói chuyện. Để bác đãi cháu mấy trái khế. Ngọt lắm !”
Ông già lại rối rít mang hai chiếc ghế nhỏ ra, lấy giẻ lau sạch bụi, lại lấy một chiếc ghế nhỏ khác kê ở giữa làm bàn, cầm lồng hái giật mấy quả khế vừa chín vàng hườm đặt vào cái dĩa xưa vẽ hình “trúc lâm thất hiền” (bảy người hiền trong rừng trúc). Ông ngồi xuống, nhìn vào đôi mắt tròn đen láy đầy thông minh và tự tin của đứa cháu, miệng cứ nở cười :
– Ăn đi cháu. Khế ngọt. Ăn đi rồi bác kể chuyện ba cháu cho nghe. Ha, ha… Con Tám Võ ! Ăn đi cháu, đừng sợ “ăn một quả phải trả một cục vàng”. (Ông lại cười, vỗ đầu cô). Cục vàng của Tám Võ đây ! Ha ha… !
Ông hỏi sức khỏe mẹ cô, hỏi đủ thứ chuyện, có nhiều chuyện cô không thể nào trả lời được. Lúc đó, ông già mới bật cười :
– Chết chưa ! Cháu đến hỏi chuyện bác, vậy mà bác cứ hỏi cháu hoài.
Ông ngồi trầm ngâm. Cô gái im lặng, nhấm nháp những quả khế ngọt lừ, nhìn thân cây khế nổi đầy u sần sùi, da gỗ thâm đen, láng bóng như chứa đựng rất nhiều chuyện cổ tích. Một ngọn gió biển thoáng qua, hoa khế nhỏ li ti rắc những chấm đỏ hồng trên mái tóc hoa râm của ông già, trên mái tóc bồng của cô gái, rắc đầy mặt đất chỗ hai bác cháu ngồi. Hoa khế rơi vào lu nước mưa, trôi như những chiếc thuyền con đỏ hồng trên mặt nước trong trẻo. Ông nói :
– Bác sống với ba cháu không lâu, kỷ niệm cũng không nhiều. Nhưng con người như ba cháu thì bác không thể nào quên. Chắc cháu có đọc sách, có xem phim nói về cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta trên khắp đất nước. Nhưng cuộc chiến đấu ở đây thì lạ lắm ! Suốt năm đánh nhau với tàu chiến, với máy bay, với chất độc hóa học trên mặt sông, trên rừng lầy ngập mặn. Suốt ngày đêm còn phải đánh nhau với muỗi, có khi với cá sấu… Rồi tháng này sang tháng khác cứ liên miên thiếu gạo, thiếu muối, thiếu nước ngọt… Tóm lại là suốt đời ngâm mình trong bùn nước mà đánh giặc, ngâm xương trong bùn nước mà hy sinh… Bác sanh đẻ, lớn lên, kháng chiến tại đây. Vậy mà tới bây giờ bác cũng thấy lạ lắm, chắc không ở đâu có. Ba cháu là người Sài Gòn mà chịu đựng được, bác quí lắm, nhớ hoài. Lần đầu tiên bác gặp ba cháu khoảng năm sáu bảy, sáu tám. Trước đó, bác hoạt động bí mật trong vùng này, dựa vào dân. Hầm bí mật là một cái thùng phuy, chôn dưới đất lầy, cả ngày trốn dưới đó lạnh thấu xương. Địch dò ra hầm thì không cách nào thoát, bao nhiêu người hy sinh. Bác và mấy đồng chí còn lại phải bật ra rừng Sác. Cá sấu là kẻ thù, còn muỗi thì bu quanh mình gắn bó suốt ngày đêm, như bạn thân không rời nhau vậy ! Sông Lòng Tàu lúc đó là con đường huyết mạch để Mỹ tiếp tế cho chiến tranh. Bằng mọi cách phải bám rừng Sác để chẹn cái cổ họng nó là con đường này. Cấp trên đã thành lập đặc khu rừng Sác, lực lượng gọi là Đoàn 10. Ba cháu lúc đó là cán bộ đại đội của đội cối 82, anh em hay gọi là đại đội Tám Võ. Bác gặp ba cháu trong những ngày sửa soạn vượt sông Lòng Tàu bên này rừng Sác. Lúc đó bác làm tuyên huấn của huyện nên phải mang về rừng cả giấy pơ-luya, giấy stăng-xin, mực in Ko-rét… Vì vậy mà xin đi nhờ xuồng cối của ba cháu. Còn nói chung thì cán bộ và chiến sĩ đều phải ngâm mình xuống nước, dùng tay chân mà bơi vượt sông. Sông rộng hơn một ngàn mét, lại phải chọn chỗ trống trải, cho chúng bất ngờ. Trong điều kiện sống chết như vậy mà ba cháu nhận cho bác đi theo, cả đời bác không quên. Bác là người tại chỗ, bơi lội giỏi hơn ba cháu. Nhưng lúc đó, bác còn quý giấy mực… hơn tính mạng mình. Và ba cháu, tuy là bộ đội, nhưng cũng hiểu thấu sức mạnh của một tờ báo in rô-nê-ô. Cháu à, ở đời ai mà hiểu được mình, giúp mình khi sống chết thì hình ảnh người đó ở lại mãi trong trái tim mình. Đêm hôm đó trời chuyển mưa, trên mặt sông, ngửa bàn tay không thấy. Ông trời bịt mắt thằng giặc nhưng cũng bịt mắt luôn anh em mình. Cách vượt sông, ba cháu cũng tính kỹ lắm, tánh ổng như vậy : Một tiểu đội thạo địa hình bơi qua trước, chọn điểm đổ bộ, thỉnh thoảng chớp đèn làm hiệu cho đại đội nhắm hướng mà sang, khỏi lạc vào vòng tàu giặc. Khi nhận được tín hiệu, ba cháu ra lệnh vượt sông. Chỉ có mấy xuồng chở súng thôi, cán bộ chiến sĩ đều cởi trần, quần cụt, mọi thứ đều gói gọn vào bọc ny-lông, buộc chặt lại, rồi ôm bọc lặng lẽ thụp xuống nước, vừa bơi vừa đẩy bọc ny-lông sang bờ bên kia. Mà cháu biết không, gần biển, nước rút ròng dữ tợn lắm. Sông lại rộng mênh mông. Bác ngồi trên thuyền của ba cháu, bốn mái dầm cứ ra sức bơi. Thỉnh thoảng, nhìn hiệu đèn chớp mà định hướng. Tiếng tàu tuần chốc chốc lại rù rì vang lên, chạy ngược chạy xuôi trên sông. Ánh đèn pha quét qua quét lại mặt nước. Xuồng ra quá nửa sông thì cơn giông nổi lên. Sóng bạc đầu đầy ánh lân tinh bủa trắng xóa chung quanh, gió tạt sóng ướt hết, lạnh run. Ba cháu tát nước không ngừng tay và bảo anh em : “Bình tĩnh ! Bình tĩnh !”. Rồi mưa ào tới, quật vào mặt rát rạt. Tín hiệu trên bờ không còn nhìn thấy, chiếc xuống như cái lá giữa cơn giông, chẳng còn biết đâu là rừng, đâu là biển, đâu là bờ ta cần đến, đâu là cái hông tàu tuần của giặc. Mưa quất tới tấp, xuồng đầy nước, sắp chìm đến nơi. Ba cháu ra lệnh một người ngồi trên xuồng tát nước, tất cả nhảy xuống sông bám thuyền, dìu thuyền vào bờ. Lúc đó bác nghĩ : phải chi không có mình và đồ đạc của mình chắc chiếc xuồng không đến nỗi khẳm như vậy. Nhưng ba cháu lại động viên bác : “Anh yên tâm, hễ tôi còn là đồ đạc của anh không mất một gói nào”. Bác nhớ hoài câu đó. May sao cơn mưa giông không kéo dài. Bình tĩnh lại, mấy anh em mới xác định coi bờ ở hướng nào. Ba cháu nói : “Nước ròng, nếu sức nước đạp từ hông phải của mình thì bờ cần đến ở trước mặt”. Bác là dân sông nước mà lúc đó mới sực nhớ lại. Ba cháu vậy đó : Bình tĩnh lúc nguy nan, tỉ mỉ trong thực hiện và khoa học trong nhận xét. Bác chẳng nhớ là mình bơi như vậy trong bóng đen đặc và lạnh như nước chừng bao lâu, nhưng cảm thấy dài lắm, đuối lắm. Thì lúc đó bỗng chạm chân xuống bãi sông. Mừng quá chừng. Ba cháu lại bảo : “Im lặng ! Cảnh giác !”. Lần theo bãi bùn, tìm ra được một lạch nước nhỏ, kéo xuồng vô, giấu kín. Ba cháu với bác ở lại giữ xuồng. Anh em tản ra, núp trong những bụi giá con con mọc lúp xúp. Trời sáng dần. Vừa đói vừa lạnh, hai anh em giở cơm nắm với muối mè ra ăn. Mới hay gói muối của bác bị ngấm nước, đậu phộng mở tòe loe toét loét, còn gói muối ba cháu vẫn còn khô. Thấy chưa, ba cháu kỹ vậy đó. Ba cháu nói : “Mình ăn gói muối ướt trước, còn muối khô để dành chiều ăn”. Ăn xong ba cháu bảo bác ở lại giữ xuồng, ba cháu lội đi tìm anh em. Bác chờ hoài, nóng ruột quá. Mà trực thăng Mỹ thỉnh thoảng cứ lạch phạch trên đầu. Đến xế chiều, gần tối, ba cháu mới trở lại, mặt mũi đen đúa, hốc hác, râu mọc xanh rì, quần áo ướt mem, bê bết bùn. Chỉ có cặp mắt là sáng. Ba cháu cười nói : “Lạc lung tung hết ! Nhưng lạc ở bờ bên này, không ai lạc thối lui về bờ bên kia. Hẹn điểm tập trung rồi. Đêm xuống, ta lại hành quân…” Chiều hôm đó, mỗi người còn nửa vắt cơm và còn gói muối khô ráo của ba cháu. Cháu biết không, với chiến sĩ rừng Sác khi ấy, đó là một bữa tiệc !…
Như Ngọc ngồi nghe, nước mắt cô cứ chảy. Cô yêu cha, tự hào vì cha, xót xa, thương cha thắt ruột. Những năm đó, cô ngồi học trên ghế nhà trường, cô đi chợ nấu cơm, cô đi ăn kem, ăn hủ tiếu, cùng bạn bè đi chơi Sở thú và đi xem xi-nê… Cô có ngờ đâu lúc ấy, cha cô… Hoa khế li ti, đỏ hồng thỉnh thoảng lại rụng xuống chạm tay cô cùng với những kỷ niệm đẹp đẽ mà gian nan của người cha đã mất. Ông bác nói :
– Sau khi vượt sông trở về xây dựng căn cứ rừng Sác ấy, bác còn có dịp gặp lại ba cháu vài lần. Nhưng ba cháu bên cánh quân sự của đặc khu, còn bác là cánh dân chính ở huyện. Tới cuối năm bảy mươi, bác hay tin ba cháy đã hy sinh.
Như Ngọc lấy tay quệt nước mắt, nói lên ý nguyện của mẹ mình. Người cán bộ già cũng không nén được xúc động. Ông cúi đầu nói nghẹn ngào như có lỗi :
– Bác không biết rõ… Lúc chiến tranh, không có điều kiện, giờ hòa bình rồi, lại nhiều công việc… Nhưng cháu đã đến đây, nhắc bác. Bác sẽ ráng giúp cháu. Bây giờ hai bác cháu mình cùng tìm nhé : Trong đại đội của ba cháu lúc đó có một chiến sĩ đã chứng kiến lúc ba cháu hy sinh và đã chôn cất ba cháu. Sau ngày hòa bình, bác có viết thơ ngay cho anh Hai Nhã, lúc đó chỉ huy đặc khu, hỏi thăm tin tức ba cháu và người chiến sĩ ấy. Nhưng rất tiếc là anh chiến sĩ này sau đó ít tháng cũng đã hy sinh, không kịp báo với đơn vị chỗ chôn cất ba cháu một cách chính xác. Tuy nhiên, theo lời anh ấy kể lại thì phần mộ của ba cháu ở khoảng giữa tắt Cọt Kẹt và tắt Quanh Queo. Nhờ có một ông lão người địa phương làm nghề đóng đáy giúp đỡ mà ba cháu được chôn cất trên một gò đất đỏ khô ráo ở giữa rừng lầy. Cháu đừng ngạc nhiên, đừng có tròn mắt như vậy, chắc cháu không tin là ở giữa rừng lầy ngập mặn lại nổi lên những gò đất đỏ chứ gì ? Đó cũng là một cái lạ của rừng Sác mình, nhưng đó cũng là sự thật không phải một gò, mà hàng trăm gò như vậy. Dân rừng Sác, nhất là những cụ già, hàng trăm năm nay lội nhẩm dấu chân trên rừng Sác đều kể về những gò đất như vậy. Nguồn gốc chúng ở đâu ? Có nhiều giả thuyết nhưng chắc chắn là các nhà khảo cổ, các nhà sử học và các cháu thanh niên thích các ngành ấy sẽ rất say mê tìm hiểu. Nó là một đề tài có giá đó. Vậy thì ba cháu chắc chắn đã được chôn cất trên một cái gò như vậy. Anh chiến sĩ đã hết lòng với ba cháu là một người miền Bắc, dân Hà Nam Ninh ở cái đất đồng trũng “chiêm khê mùa thối”, “sống ngâm da, chết ngâm xương” nên rất thông cảm chuyện đó. Nghe nói anh ấy đã phải lận đận, vất vả lắm mới đưa được thi hài ba cháu đến gặp ông lão biết chỗ có gò đất để chôn cất cho ba cháu… Còn bây giờ, chuyện của cháu thì… Có thể là mình sẽ xác định xem giữa khu vực tắt Cọt Kẹt và tắt Quanh Queo có cái gò nào không và có bao nhiêu gò. Nhưng việc này rất khó vì không ai có thể lội khắp một vùng rừng Sác rộng lớn. Cả bác và cháu cũng đều không thể làm việc đó… Hơn nữa, lúc ấy chôn cất chẳng có mộ bia bằng đá, bây giờ khó xác định là mộ của ai, giả thử như tìm ra có một ngôi mộ. Chỉ còn cách dựa vào dân chúng địa phương. Và có một hy vọng : ông già làm đáy. Theo anh chiến sĩ kể lại thì tên ông lão là ông Sáu Câu, vì ngày xưa ông này nổi tiếng trong một phường câu cá sấu và cũng vì ông thích ca vọng cổ và hình như một thời trước cách mạng đã có theo một gánh hát cải lương, rồi lại có lúc theo Bình Xuyên nữa… Bác có lần đã dò hỏi tông tích của ông già này. Nhưng ông làm đáy phao, lấy thuyền làm nhà, nay đây mai đó trên sông rạch rừng Sác… Vì vậy mà bác cũng chưa nghĩ ra cách nào chắc chắn để tìm ông mà đỡ tốn tiền của, công sức. Đâu cháu tiếp bác, ta cùng nghĩ thử coi…
Như Ngọc mắt sáng lên, chụp lấy tay ông già :
– Bác ơi, ta thử hỏi trạm thu mua thủy sản coi ? Ông lão đóng đáy thì phải bán tôm cá cho thủy sản. Có khi ở trạm thu mua người ta biết !
Nhưng bác không thật mừng cho lắm. Bác nghĩ một lúc, rồi nói :
– Ừ, cũng có thể. Nhưng hiện nay thì cũng ít người chịu bán tôm cá cho thủy sản. Ông già này chắc lại càng không…
Như Ngọc băn khoăn :
– Sao vậy bác ?
Bác tủm tỉm cười :
– Lúc nãy cháu nói cháu đang học thủy sản phải không, sắp thành cán bộ thủy sản chớ gì ? Vậy bác nói cháu để ý nhé : Dân họ đang “chửi” thủy sản tắt bếp. Vì thủy sản nợ dân như chúa chổm ! Nợ gì mà cả triệu bạc, chắc muốn quịt luôn tiền của dân…
Như Ngọc đâm ngượng vội cười lảng :
– Dạ không ! Cháu là thủy sản, nhưng thủy sản sản xuất chớ không phải thủy sản thu mua…
– Nghĩa là sao ?
– Dạ, là cháu học nghề nuôi tôm chớ không phải đi mua tôm.
Bác ngả đầu ra sau cười :
– À vậy hả. Nhưng sản xuất rồi cháu bán cho ai ? Chẳng lẽ cháu bán ngoài chợ. Vậy thì phải bán bên thu mua thôi. Rồi cháu sẽ thấy… Nhưng mà thôi. Ba cháu đã hy sinh để giải phóng đất nước, để xây dựng một xã hội công bằng hơn, tốt đẹp hơn. Bây giờ ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, khó khăn là tất nhiên, nhưng nếu không công bằng, không tốt đẹp thì phải mau mau coi lại, coi chừng cái gì trục trặc lớn đó cháu… Coi chừng trật đường rầy. Mà nếu trúng đường rầy thì coi chừng cái máy, nó vẫn quay nhưng không quay tới lại quay lui thì mình càng đi càng chết !… Với cháu thì bác nói thật : bác không nhất trí với giá cả và cách thức thu mua như hiện nay. Bác “đấu” dữ lắm nên người ta để bác… đi dưỡng bệnh dài ngày, chuẩn bị về hưu ! Nhưng bác chưa chịu thua đâu. Cháu đã có sống với những người làm ra tôm cá, cháu biết rồi đó. Cho nên bác sẽ tìm cách “đấu” chuyện này tới cùng. Cháu cứ suy nghĩ nhưng khoan nói rộng, phải tìm “đồng minh” đã. Để mình còn tính với nhau rồi gỡ lần lần ra chớ. Phải không cháu ?
Chia tay bác, Như Ngọc chợt nhớ ra điều gì, còn hỏi một câu :
– À, mà bác có bản đồ của huyện ta không ? Cháu muốn xem khu vực giữa tắt Cọt Kẹt và tắt Quanh Queo nó nằm ở chỗ nào ?
Bác cười :
– Không có cháu à, bác là ném về du kích rồi, tác phong du kích lắm. Ba cháu chính qui hơn. Còn cháu bây giờ thì đi vào khoa học. Nhưng cháu đừng chê du kích nhé. Không có bản đồ nhưng bác có thể cho cháu biết : khu vực ấy hiện nay đang nằm trong địa bàn vừa được chia cho nông trường Bình Minh. Đó là một địa bàn đặc biệt, chỗ đánh nhau trên sông nước ngày xưa của quân Tây Sơn và Gia Long, chỗ đánh nhau giữa Bình Xuyên và Pháp hồi chín năm, chỗ đánh nhau giữa ta và Mỹ ác liệt lắm… Ba cháu hy sinh ở vùng đó…
Như Ngọc đứng lại, trầm ngâm tính toán điều gì hồi lâu rồi lại hỏi :
– Nông trường ấy trồng cái gì hả bác ?
– Trồng cói. Bên cạnh có một trại cải tạo để giáo dục cho thanh niên Sài Gòn hư hỏng biết lao động và cũng để có sức lao động cho nông trường…
Sau chuyến đi thực tập ở Duyên Hải, Như Ngọc về thành phố ôm lấy mẹ, mừng rỡ báo tin :
– Má ơi, đồng đội của ba đã chôn cất ba tử tế, không để ngâm mình trong nước mặn đâu, má ơi…
Mẹ cô hôn lên trán cô, nước mắt ướt đẫm mái tóc Như Ngọc. Nhưng khi rõ đầu đuôi câu chuyện, mẹ vẫn thẫn thờ ngồi yên :
– Nhưng mà… rốt cuộc rồi cũng chưa biết ở đâu, cũng không có căn cứ nào cho chắc chắn…
Như Ngọc quả quyết :
– Có chớ má ! Sẽ có, má à ! Con biết nông trường Bình minh rồi. Văn phòng giám đốc ở bên kia cầu Chà Và. Con sẽ xin về nông trường đó trong thời gian tập sự. Con sẽ ra Duyên Hải công tác. Và nhất định con sẽ tìm thấy phần mộ của ba.
Những việc tiếp theo diễn ra không khó khăn lắm. Tánh cô giống cha, đã định là làm cho được. Vả lại ở nơi gian lao khổ ải, không ai muốn đến, tự nhiên có một cô kỹ sư xin ra đó công tác, ai mà chẳng hoan nghênh. Chỉ hơi “trái nghề” một chút : nông trường trồng cói, mà cô lại là kỹ sư nuôi tôm ! Nhưng không sao hết ! Người ta bảo : trồng cói thành công thì nông trường sẽ “tiến tới” thí nghiệm nuôi tôm, lúc đó sẽ hốt… đô la ! Nghe cứ như là sắp tới “chủ nghĩa cộng sản” đến nơi ! Bạn bè của Như Ngọc biết tin lắc đầu bảo : “Con nhỏ này khùng rồi ! Trẻ, đẹp, học cao, con liệt sĩ, mày muốn chỗ ngon lành nào mà không được, sao lại đâm đầu vô rừng ngập mặn làm cái gì ? Lãng mạn vừa vừa thôi ! Rồi mày sẽ thất bại trắng mắt ra ! Lúc đó già rồi, hết xí oách em ơi ! Ế chồng luôn, em ơi !”
Lời nói của bạn bè làm cho Như Ngọc nhiều lúc phải suy nghĩ. Họ thương mình đấy, chớ chẳng phải ghét bỏ gì đâu, họ nói rất thực tế. Nhưng họ đâu có hiểu nỗi đau của má cô, khi nửa đêm trời mưa lạnh lẽo, sực tỉnh giấc nhớ đến người thân yêu nằm lại giữa rừng, dường như đã bị lãng quên, công lao không còn ai biết đến, vì người ta còn mải bận bịu với khó khăn hay chạy theo những gì hào nhoáng trong cuộc sống bây giờ. Tuy nhiên, mẹ chỉ muốn cô tìm lại dấu vết cha, chứ mẹ chẳng muốn cô làm việc luôn ngoài ấy. Mỗi lần cô thấy mẹ ngồi thừ ra, suy nghĩ rất lung, thì cô lại xót xa, hiểu rằng mẹ đang lo lắng cho cô. Cô có hỏi, mẹ chỉ thở dài nói : “Con đã quyết thì mẹ không muốn cản. Tánh con giống ba, càng cản thì càng bướng, rồi mẹ con lại sanh cắng đắng, rầy rà. Nhưng sao mẹ hay nghĩ vẩn vơ quá. Mẹ chỉ có mình con. Cha con đã chôn xương gửi thịt ở cánh rừng này, mẹ lo con sẽ phải chôn vùi tuổi xuân tại đó…”. Khi nghe mẹ nói vậy, phản ứng đầu tiên cô, như của mọi thanh niên tự tin, có chút lý tưởng là muốn cãi lại mẹ. Tính cô rất bướng nhưng biểu hiện ra thì lại dịu dàng chứ không bồng bột, có lẽ do những năm sống bà ngoại dạy phải giấu mình… Cô chỉ cãi thầm với mẹ, cãi rất hăng : “Vậy thì chẳng lẽ thế hệ của ba mẹ dám ước mơ, dám hy sinh, còn thế hệ chúng con chẳng có quyền hy sinh hay mơ ước ?” Mẹ sẽ bảo : “Thế hệ của ba mẹ có kẻ thủ bằng xương, bằng thịt. Còn bây giờ kẻ thù là bảo thủ, trì trệ… Con muốn đấu tranh, muốn hy sinh, muốn ước vọng thì ở đây cũng đấu tranh được, cần gì phải đi ra rừng ?…” Nhưng ước vọng của tuổi thanh niên thì khác : cô muốn góp phần cho chiến trường ác liệt năm xưa thành một nông trường giàu có, biến một khoảnh rừng ngập mặn mà đất chát chua đến từng hạt bùn nhỏ nhất thành cánh rừng mới, sinh sôi ra màu xanh mới, thành môi trường sống đẹp lành cho mọi sinh vật dưới ánh mặt trời. Cô lại cãi thầm : “Chẳng lẽ mẹ muốn con đứng xa ra mà ngưỡng mộ khu rừng của ba, rồi mặc nó ra sao thì ra, để nó cứ mãi mãi là cánh rừng bị chất độc tàn phá xác xơ, chát chua mặn đắng ? Và tại sao con người cứ phải quan tâm đến chuyện đấu nhau, hại nhau, giết nhau mãi. Chẳng còn chuyện gì khác hay hơn ư ?” Thế nhưng cô không cãi. Cô ôm lấy mẹ, dụi đầu vào bộ ngực gầy xẹp vì đòn thù, lòng đau nhoi nhói : mất mát nhiều quá, bệnh tật lâu quá đã làm mẹ yếu lòng khi nghĩ đến đứa con, núm ruột còn lại của hai vợ chồng. Nhất là cuộc sống bây giờ sao nhiều chuyện khó khăn, trục trặc quá ? Muốn đấu tranh cho tốt hơn thì đấu tranh với ai ?… Những điều lo lắng của mẹ cũng làm cô suy nghĩ. Cô nói với mẹ rằng cô sẽ ra đấy tìm mộ phần của cha, đưa hài cốt cha về cho mẹ chôn cất. Còn sau này nếu hay thì cô ở lại đó, nếu gay go quá thì xin chuyển về, cũng chẳng khó khăn chi. Thanh niên thành phố bây giờ cũng chẳng kém gì con, người ta ra đó cả ngàn, làm thầy giáo, làm y sĩ, làm cán bộ… ít năm rồi sẽ về đổi phiên, cũng chẳng có gì ghê gớm lắm, mẹ đừng lo. Thế là mẹ cũng xuôi xuôi… Sâu trong lòng, quả là cô muốn tìm lại dấu vết và mở hướng niềm tin về con đường ba cô đã đi. Chắc phải có gì hấp dẫn lạ lùng lắm nên những con người tốt như ba mới hy sinh theo đuổi, chứ chẳng lẽ con đường biển rừng mênh mông dữ dội đó lại chỉ có mặn đắng chát chua ?
3. SẤU BÔNG (I)
Một trong những nhân vật chính của rừng ngập mặn này là Sấu Bông. Cuộc đời và số phận nó gắn chặt với cuộc đời và số phận của những con người từ Sáu Câu, Tám Võ, đến Như Ngọc, Ly Ly… Tuy nhiên, nó chỉ xuất hiện vào lúc bất ngờ và quyết định nhất trên ngã đường đan chéo nhau của nhiều số phận… Vì vậy, tìm hiểu “lý lịch ba đời” nhà nó cũng là để rõ hơn số phận của những con người đã và sẽ còn đụng đầu, còn nghĩ suy về chuyện Sấu Bông…
Tổ tiên của Sấu Bông ngự trị ở cái vùng mà ngày nay con người ngự trị. Lúc đó, cách đây chưa lâu, nơi này còn là một vùng đầm lầy với những bãi sông đầy lau sậy, dừa nước và bần cũng là những thứ cây dầm chân trong nước. Đó là một ngã ba sông, bởi vì ở các ngã ba sông, chỗ hai luồng nước gặp nhau, xoáy cuộn, thường dồn tới nhiều thức ăn, trên bờ thì đầm lầy và những vũng nước đọng rộng lớn như những ao, đầm, chỗ ở và kiếm ăn thích hợp cho loài sấu. Họ hàng nhà sấu sinh sôi, lổi ngổm bò đi kiếm ăn hay lim dim nằm phơi nắng giữa lau sậy, trên bãi sông, sau khi đã bắt được một con mồi cho vào bụng. Phần đông là loại sấu da mốc mốc, đen đen, nhỏ con, loại đàn em, xoàng xĩnh. Sấu Bông thuộc vào loại khác. Dòng họ nó to lớn, có khi to bằng một chiếc xuồng, từ mũi đến đuôi dài tới sáu, bảy mét. Vẩy nó đặc biệt xen hai màu đen mun và vàng chanh như những hoa văn vừa sang trọng vừa hoang dã trông thật dữ tợn. Tổ tiên truyền lại cho nó cái màu vẩy và cái vóc dạng hì hợm đó, như truyền lại cái dấu ấn, cái “da huy” chúa tể rừng lầy. Còn tên Sấu Bông, chỉ từ khi có người đến đây, nó mới được đặt cho. Lúc ấy, ở vùng này người thì ít mà cá sấu thì nhiều. Những buổi hoàng hôn là lúc thuận tiện để Sấu Bông đi kiếm mồi – nhất là từ khi có một thứ mồi mới lạ đến đây tranh làm chúa tể với nó – là lúc Sấu Bông lựa chọn để “đấu trí” với loại “mồi” nguy hiểm này. Và không ít lần, dòng họ Sấu Bông đã thành công, truyền lại kinh nghiệm bắt mồi vào lúc nhá nhem giữa ngày và đêm cho con cháu. Về khuya, đàn sấu hay cất tiếng kêu, tiếng kêu khi bụng đói chưa kiếm được mồi, hay tiếng kêu gọi những bạn tình làm cái việc lưu truyền nòi giống… Tiếng kêu của sấu gần giống tiếng kêu của trâu : “Nghé é… é… ọ… ọ… ọ” Tiếng kêu của loài chúa tể rừng lầy, trong buổi chiều chập choạng, khi mặt trời vừa lặn, ánh hồng còn đọng chút đỏ hầm, hay nửa đêm trời sáng trăng suông, ngoác chiếc mõm dài đầy răng chơm chởm hướng lên mảnh trăng vàng úa, thỉnh thoảng vọng tới từ những bãi hoang, với những ngọn lau sậy mọc cao, chĩa lên nền trời mờ tối, hay cạnh những đầm, ao, hồ, thủy triều rút cạn lấp xấp nước quanh ngã ba sông.
Chỉ mới có ba trăm năm, ngay cái chỗ trước đây tổ tiên Sấu Bông còn bò lển nghển, bây giờ những chiếc xe hơi loại mới nhất của thế kỷ đang chạy ngược xuôi. Khi hoàng hôn, tiếng nghé hoang dã của loài sấu thay bằng những hồi còi của những con tàu to lớn. Và thâu đêm, ánh đèn thủy ngân cao áp hắt xuống mặt sông, đẩy bầy sấu chạy dạt về rừng Sác xa dăm bảy chục cây số. Nếu Sấu Bông không bò sát mà đứng cao lên giữa rừng lầy ngập mặn thì ban đêm, nó có thể nhìn thấy ánh sáng ấy, làm thành một quầng sáng xanh rạng phía chân trời, nơi xưa kia tổ tiên nó ngự trị. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh sinh tồn theo qui luật của rừng lầy vẫn chưa chấm dứt. Nó thay đổi qua rất nhiều hình thái, nhưng hình như điều cốt lõi vẫn chưa hề thay đổi hoặc chỉ mới báo hiệu đổi thay… Sự thay đổi không thể tính bằng năm mà có khi nhiều thập kỷ hay nhiều thế kỷ…
Thuở người và sấu mới gặp nhau và giành nhau ngã ba sông này, bằng trí khôn tinh quái của mình, một buổi chiều chạng vạng, cụ tổ của Sấu Bông đã thả mình lờ đờ dưới nước, chỉ để ló lên đôi mắt nhìn và hai chót mũi thở. Nó nhẹ nhàng tiếp cận con mồi… Đó là một người đàn bà đang ngồi trên thuyền chúi xuống nước vo gạo nấu cơm chiều, hay một đứa bé con đang chơi thơ thẩn bên mạn thuyền, mà cũng có khi là một người đàn ông lực lưỡng vác củi đước, củi mắm từ trên bờ thì thụt lội xuống bãi sông, chất bó củi cuối cùng kiếm được trước khi mặt trời tắt hẳn. Nó có tài và khôn khéo đến mức đưa cả thân hình đồ sộ như vậy đến gần mà con người, với những giác quan đã phát triển tinh xảo cũng không hề hay biết. Ánh hoàng hôn hạn chế thị giác con người nhưng với Sấu Bông, nó biết rõ mục tiêu lắm, mặc dù mắt nó chỉ la đà mặt nước. Và đúng lúc đó thì… “Rầm !” một cái, Sấu Bông quật mạnh đuôi, thế võ lợi hại nhất của nó, người đàn bà đang ngồi vo gạo hay em bé chơi ở mạn thuyền hoặc người đàn ông vác củi vừa đi đến mép nước… đã ngã nhào xuống sông. Nó cắp người ấy đi trong cái mõm rộng và dài với hai hàm răng lởm chởm hình số 8. Nếu người đàn ông còn sức khỏe, dãy dụa, nó sẽ lặn sâu xuống đáy sông cho đến lúc con mồi bất động, nằm im chết hẳn. Loài sấu không có mang như cá, nó không ăn được mồi dưới nước, nên cuối cùng nó lại trừng lên mặt nước, mang mồi đến một nơi vắng vẻ, yên tĩnh. Tại đây, nó đặt con mồi lên bãi, lùi ra xa, rồi có khi ào ào xông tới, có khi uốn lượn thân mình và cái đuôi dài, to bè, khe khẽ trườn lên, lấy mõm thúc hoặc cắn phập vào mồi, vung vẫy, múa may, lắc chiếc đầu qua lại, chà xát con mồi cho thật bầm dập, mềm nhừ. Nó giỡn mồi thật lâu, đến lúc nước miếng và nước mắt – vâng, nước mắt – chảy ra ràn rụa mới bắt đầu ăn. Quan sát kiểu ăn mồi của no, con người đã có thành ngữ : “nước mắt cá sấu”. Có người nói, lúc sắp ăn mồi, nó thích thú phát ra những tiếng kêu như tiếng trẻ con khóc. Có người còn nói cá sấu có thể bắt chước tiếng khóc trẻ con để dụ con người động lòng trắc ẩn mà tìm đến… gặp nó ăn thịt ! Từ nơi vắng vẻ, yên tĩnh của rừng lầy, Sấu Bông nhẩn nha ăn cặp đùi và chân trước, rồi đến gan ruột, rồi tay… Nhiều khi đói quá, Sấu Bông nuốt chững cả người vào cái dạ dày ghê gớm của loài nó, từ đầu, qua vai, nuốt dần đến lưng và bụng… Con mồi, có khi là một người đàn ông lực lưỡng, sức sống đang độ dồi dào bỗng bị đứt ngang, lúc ấy bất thần dãy dụa đôi chân trong không khí ! Sấu Bông thấy con mồi động đậy, càng ra sức nuốt, nuốt nhanh vào. Chẳng mấy lúc mà cặp đùi, đôi cẳng chân và gót chân của người biến dần trong cái mõm dài, đầy răng chơm chởm của nó.
Nhưng cạnh tranh sinh tồn và giành quyền chúa tể không bao giờ chỉ diễn theo hướng đó. Một buổi chiều nhá nhem, cụ Sấu Bông nghe có tiếng chân người lội từ cánh rừng lầy ra bãi bùn thì thụt. Lặng lẽ, nó bơi nhẹ nhàng về hướng ấy, cặp mắt nó có hàng mi cứng nhô ra như cái mái hiên cho nước không bao giờ tràn vào mắt – và hai chót mũi đen, da dày, trơn bóng cong hướt lên, từa tựa mũi thuyền – rẽ nước êm ru… Trong buổi chiều chập choạng, con người khó mà phân biệt một con cá sấu to như chiếc xuồng, chỉ bằng vào những đốm đen cỏn con lập lờ mặt nước, giống như rêu rác bọt bèo vẫn trôi theo dòng tháng năm. Sấu Bông tiếp cận con mồi. Người ấy chẳng hề hay biết. Đó là một ông già đốn củi, nhưng sức vóc vẫn còn cường tráng, bịt khăn đầu rìu, cởi trần, phơi vuông ngực ra nắng gió với màu da đồng hun, săn dày và bóng lên trong ánh mờ bầm đỏ của hoàng hôn. Ông nghiêng vai, hất đống củi vào thuyền, đặt chiếc búa lưỡi to và ngời ánh thép bén bên cạnh. Đoạn ông khoát nước rửa chân ngồi lên thuyền và thong thả móc trong cạp quần ra gói thuốc đen, quấn một điếu lớn. Đúng lúc đó thì cụ tổ Sấu Bông trờ đến và tấn công liền, bằng cái đòn đuôi hiểm ác. Nhưng ông già đốn củi lại là người võ nghệ cao cường. Vừa thấy nước dợn và nghe hơi gió từ sau lưng, ông già vụt quay lại, thụp xuống, tránh đòn đúng lúc. Rồi một tay lừa theo đà quật của đuôi sấu, chộp trúng chóp đuôi gai góc sần sùi, một tay ông rút búa đốn củi chém gọn một nhát thật sắc. Một đoạn đuôi sấu đứt lìa, đỏ tràn những máu, dãy dụa, quật lại quật qua trong tay ông lão. Sấu Bông rụng rời, thụp ngay xuống nước, lặn sâu. Giống sấu dữ tợn và gan lì, chẳng bao giờ kêu khi bị thương hoặc giả nó có kêu, nhưng tiếng ghé kinh hoàng đã bị dòng sông nước ròng chảy siết bụm giữ lại, chỉ còn đám hơi và bọt nổi lục cục bên trên, với vệt máu loang nhòa trong nước sông hắt ánh hoàng hôn đỏ bầm màu máu. Ông già thở hắt ra, ngồi phịch xuống đống củi, sững sờ, trong tay vẫn cầm khúc đuôi sấu đầy máu với những vẩy lốm đốm vàng đen. Ông rùng mình : Sấu Bông ! Lúc sau, bình tĩnh lại, ông đặt khúc đuôi sấu thỉnh thoảng vẫn còn giần giật, quẫy cựa, trên đống củi, gay chèo, đưa xuồng trở lại cái xóm nhà vẫn còn lèo tèo lắm ở ngã ba sông. Từ xa, ông đã thấy ánh đèn le lói ở gian nhà nhỏ của mình, có bà lão và cô con gái đang ra bến đứng ngóng. Bởi vì ở vùng này khi ấy, người đi kiếm củi quá tối chưa về thì gia đình lo lắm. Người đi câu cũng vậy. Đã có câu ca về người đi câu bị sấu bắt, lưu truyền lại mãi cho cháu con. Tin ông lão chém được một khúc đuôi Sấu Bông chẳng mấy chốc lan khắp xóm. Và sau đó, người ta kéo đến trầm trồ khen tài ông, ngắm nghía đuôi Sấu Bông và cuối cùng, theo tập tục dân sông nước, đêm đó, những người đàn ông ngồi nhắm rượu với đuôi Sấu Bông luộc kỹ, cặp với khế và chuối chát, chấm mắm nêm. Đuôi sấu là chỗ thịt ngon nhất trong tất cả con sấu. Đuôi Sấu Bông không mềm như đuôi sấu mốc nhưng nhờ bà lão luộc kỹ nên ăn giòn đậm đà. Hơn nữa, đây là lần đầu dân vùng này mới ăn được thịt đuôi Sấu Bông. Đuôi Sấu Bông ư ? Ồ, cái đó đáng giá lắm. Nó báo hiệu sự thất bại bước đầu của chúa tể rừng lầy.
Từ đó, ngã ba sông này đông đúc dần lên. Rừng lầy biến thành chỗ ghe thuyền tụ hội, rồi biến thành chợ búa, biến thành cảng sông, cảng biển, biến thành phố sá, thị thành… Sấu Bông và sấu mốc bỏ địa bàn, đi mãi về hướng rừng Sác, làm chúa một vùng rừng lầy khác, sinh con sinh cháu để truyền dòng giống Sấu Bông. Nhưng con người lại dần dần chiếm những ngã ba sông khắp vùng rừng Sác.
Có một thời, khoảng cuối thế kỷ trước, đầu thế kỷ này, cuộc cạnh tranh sinh tồn đã chuyển sang hình thái mới : cá sấu, nhất là Sấu Bông, không phải kẻ tấn công trước, mà ngược lại, con người ra tay săn cá sấu ở vùng này. Người ta lập ra cả những phường câu sấu… Rất nhiều sấu, nhất là giống nhỏ con, da mốc mốc, thấp cơ thua trí con người đã bị bắt, có con được mang bán tận xứ xa. Câu được con sấu, nếu là sấu lớn, trước hết người ta mổ ra cái dạ dày vì trong đó thường có thoa bạc, xuyến vàng của những người đã bị nó ăn thịt. Răng sấu, mà phải là răng nanh mới oách, làm cán dao bịt bạc, nhiều người giàu hỏi mua rất đắt. Da sấu, con người mang đi thuộc làm nhiều thứ vật dùng, người châu Âu ưa chuộng lắm.
Trước sự săn lùng ráo riết đó, đàn sấu rút vào rừng sâu hơn, và bị diệt dần. Những con còn lại, nhất là loại sấu bông, phải là những con mạnh mẽ khác thường, khôn ranh tinh quái khác thường mới đối chọi nổi và tồn tại nổi trước con người. Chính con Sấu Bông nằm lim dim phơi nắng giữa rừng lầy ngập mặn hôm nay là một trong những con chúa đó…
4. “BÌNH MINH”
Gần trưa, thuyền máy ra tới địa bàn của nông trường Bình Minh. Như Ngọc thật ngỡ ngàng. Trước khi đến, cô đã chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh nhưng cô không hình dung nổi thực tế “nông trường” lại chỉ là một khoảng rừng xơ xác và hai dãy nhà lèo tèo như vầy. Vậy thì mẹ và các bạn có lý hơn mình chăng ? Bây giờ tính sao đây, ở lại hay ngày mai, tìm một lý do nào đó để theo thuyền trở về ? Mà bỏ về là mình thua cuộc, thua trắng tay. Còn ở lại thì… Mình làm gì được trước cái thực tế này ? Ước vọng ư, cải tạo môi sinh ư ? Thật là trẻ con quá ! Hy sinh ư, thật là vô ích, hy sinh để được cái gì ? Trong khi đầu óc cô đang lộn xộn thì con thuyền đã bớt máy, từ từ cập bến. Như Ngọc xách hành lý, theo mọi người lên bờ.
Đi trước cô là chú Hai Hưng, bí thư Quận ủy, cấp chủ quản của cái nông trường này. Cô biết rằng mỗi một quận của thành phố, theo lệnh trên đều đưa người ra cắm đất ở rừng Sác, mở một nông trường. Chú Hai Hưng gần năm mươi tuổi, người đậm đà, tóc lốm đốm bạc. Chú xách một cái xắc du lịch vải giả da màu cà phê sữa, với kiểu cách chế tạo là lạ, chắc mua được trong một chuyến công tác ở nước ngoài, chân đi ủng cao su đen. Chú bước những bước khỏe và chắc trong khi Như Ngọc khá vất vả với đôi guốc cao gót, có thể sụp chân bất cứ lúc nào xuống lỗ nẻ chi chít, vừa to vừa rộng trên mặt con đường đắp lên bằng đất sình ngậm phèn đến nỗi vàng khè màu rỉ sắt. Lúc đó, Ba Trí từ phía sau đi nhanh lên, đỡ cái túi xách cho Như Ngọc, mỉm cười khuyên : “Cô đi đất có khi tốt hơn”. Như Ngọc đỏ mặt, tháo guốc ra cầm tay, nhưng được mấy bước, gan bàn chân cọ xát với đất phèn lổn nhổn vừa đau nhói, vừa rin rít, ghê ghê. Cô đành tra guốc vào chân, theo sau cho kịp Ba Trí. Sống ở thành phố hai mươi năm, cô đã quen thuộc và yêu mến những con đường cây cao bóng mát, những lá me bay bay như rắc vàng hay những hoa dầu, hoa sao, xoay tròn chong chóng, rơi đầy trong nắng trưa mùa gió chướng… những kỷ niệm êm đềm, thơ mộng và tuổi ấu thơ, của tuổi học trò… Đến khi Như Ngọc nghe Ba Trí nói về cái đẹp của cây đước, của rừng Sác, cô cũng mê, cũng thích và tưởng tượng ra những cảnh tương lai đẹp như… xi nê. Nhưng đụng vào thực tế thì… Thôi, bây giờ chẳng còn cách nào hơn là cứ bước theo anh Ba Trí.
Ba Trí vừa ngoài ba mươi tuổi, người gầy gầy, cao cao, da trắng trẻo, vẻ thư sinh nho nhã. Đó là bí thư Quận đoàn, kiêm giám đốc nông trường Bình Minh, kiêm hiệu trưởng trường thanh niên mới “Bình Minh”. Hôm trước, Như Ngọc gặp anh ở trụ sở Quận đoàn đồng thời là văn phòng nông trường, đóng ở bên kia cầu Chà Và của thành phố, cô đã phục cái anh còn trẻ mà làm tới mấy chức “trưởng”. Anh chẳng những vui vẻ nhận cô về nông trường mà còn nhanh chóng liên hệ, làm ngay mọi thủ tục để cô được chuyển sang sớm. Lúc đầu cô thầm khen “tác phong công nghiệp” của anh. Nghe anh nói về khó khăn, về tương lai của nông trường, Như Ngọc thấy anh có kiến thức rộng, có hoài bão lớn. Bây giờ đến đây, Như Ngọc nhìn anh có hơi khác : chắc anh ấy có một chút gì mơ mộng giống như mình, à không, giống như ông Đông Ki-sốt, với cái dáng gầy gầy, cao cao ! Còn Xang-sô đâu ? Ai sẽ là ông Xang-sô ? Chẳng lẽ lại là mình ? Nghĩ đến đấy, Như Ngọc suýt bật cười. Cô phải vội đưa tay lên che miệng. Ba Trí quay lại chờ cô. Anh chợt hỏi : “Cô cười gì đó ?” Rồi anh tự giải thích chẳng cần Như Ngọc trả lời : “À, lính mới, ra đây nhìn thấy cảnh này không khóc mà còn cười được, đó là điểm tốt !”.
Một người mặc quần áo bộ đội cũ, tóc dài rậm rạp, nước da đen của người vùng biển, mặt vuông chữ điền, chạy ra đón bí thư Quận ủy. Anh nói giọng Bắc pha giọng Nam : “Chào anh Hai ! Anh ra thiệt đúng lúc ! Có nhiều chuyện cần báo cáo với anh… (Anh liếc sang Ba Trí và thêm) với cả anh Ba nữa…”. Ba Trí giới thiệu với Như Ngọc : “Anh Lê Quát, phó giám đốc kiêm hiệu phó, người bám trụ ở đây từ buổi đầu tiên”. Lê Quát bắt tay Như Ngọc thật chặt, miệng cười rạng rỡ : “Quí hóa quá ! Quí hóa quá ! Nghe tin cô sắp ra, tôi mừng quá. Cói nông trường sắp chết rụi, có kỹ sư ra thì hay lắm. Mai Sương đâu, tiếp chị Ngọc đây nè !” Một cô gái người mảnh dẻ chạy tới nắm tay Như Ngọc lắc mạnh : “Em trông chị quá trời ! Trước đây có một mình em. Giờ thêm chị nữa, vui ghê!”. Như Ngọc cũng thật vui. Ba Trí đã cho cô biết ngoài này có một cô gái, nhưng không ngờ còn trẻ như vậy. Như Ngọc hơi xấu hổ vì đã hoang mang khi vừa nhìn thấy “nông trường”. Cô gái này đã đến đây trước cô và đang là chỗ dựa tinh thần cho cô. Lê Quát vẫn tíu tít : “Mời, mời anh Hai và mấy anh vào nhà uống nước !” Như Ngọc theo các anh vào gian nhà mái phi-bơ-rô xi-măng, trong khi đó thì Ly Ly và mười thanh niên khác đi sang dãy nhà kia, giành cho những “học viên” của trường thanh niên mới.
Mấy người ngồi quanh chiếc bàn, lem nhem vết lọ nồi, thoang thoảng mùi nước mắm. Lê Quát đưa cho Như Ngọc một chén trà nóng. Cô bưng ra ngồi trên giường cạnh đó vì không đủ ghế. Lê Quát giở sổ, nói : “Trong khi chờ cơm, tôi tranh thủ báo cáo tình hình để anh Hai nắm và cho ý kiến. (Anh quay sang Ngọc). Cô Ngọc nghe kể nắm luôn”. Như Ngọc nhỏ nhẻ húp từng hụm trà nóng, có vị mằn mặn của nước biển, uống mà không thấy đỡ khát. Cô vừa nhớ Sài Gòn, vừa lơ đãng nghe Lê Quát nói, câu được câu mất :
– … Cói lên được bốn tấc nhưng đang ngả vàng, có nguy cơ chết rụi…
Tới đây thì Như Ngọc ngẩng lên, chăm chú nghe. Cô thấy chú Hai Hưng cắt ngang :
– Ủa ! Sao hôm trước báo cáo về là cói lên được, sống được ? Quận ủy nghe vậy đã mừng. Hôm nay tôi đến đây thi…
Lê Quát chậm rãi nói :
– Báo cáo anh, tiền không có, người không có. Anh em đã cố gắng hết sức rồi. Phải chi anh ra đây mấy tháng trước, thấy anh em húp cháo nấu nước mặn, đào đất đắp nền nhà, dựng nhà…
Hai Hưng phẩy tay :
– Thôi, khó khăn mình biết rồi. Thông cảm với các cậu lắm. Bước đầu xây dưng chủ nghĩa xã hội mà… ở đâu cũng vậy, cũng những khó khăn đó. Bây giờ, các cậu tính sao ?
Lê Quát gãi đầu, nhìn Ba Trí :
– Các anh ở xa, chưa thấy hết khó khăn hàng ngày ở đây : gạo thiếu, thức ăn thiếu, rau xanh thiếu, nước ngọt thiếu… Tư tưởng anh chị em diễn biến phức tạp lắm. Đành rằng khó khăn ở đây cũng giống như khó khăn ở những nơi khác. Nhưng ở thành phố, nếu một đơn vị sản xuất thiếu tiền, thiếu gạo, thiếu người thì cầm cự được, chứ ở đây, một khó khăn nhỏ mà không giải quyết ngay có thể dẫn đến đỗ vỡ…
Như Ngọc ngồi nghe Lê Quát nói, cô vừa lo lắng vừa thương cho anh phó giám đốc đã “bám trụ” tại đây từ buổi ban đầu. Anh là phó giám đốc, lại đã từng chiến đấu còn kêu khó. Mình là con gái, sinh viên mới ra trường thì làm được cái gì đây ? Mọi ý nghĩ sao cứ hướng cô trở về thành phố… Cố liếc nhìn chú Hai Hưng : chú đang trầm ngâm suy nghĩ. Chú hỏi :
– Vậy các cậu có đề nghị gì, yêu cầu gì ?
Lê Quát lại nhìn Ba Trí. Ba Trí ngồi yên một lúc rồi ngập ngừng nói :
– Theo tôi, nếu ta chạy theo đối phó với từng khó khăn cụ thể thì cũng không giải quyết được vấn đề. Có lẽ nên xem lại từ phương hướng đầu tư xây dựng nông trường, đến phương hướng sản xuất… Nếu tôi thấy phương hướng sản xuất của nông trường do Quận chỉ đạo là chưa đúng, tôi chuyển hướng khác, có được ủng hộ không ?
Hai Hưng nhìn Ba Trí, rồi nhìn vào cuốn sổ để trên bàn. Ba Trí nói tiếp, chẳng đợi câu trả lời :
– Nếu tôi yêu cầu có tiền để xây dựng cơ bản cho việc chuyển hướng sản xuất, ví dụ đào kinh, đắp đập, xây cống… để nuôi tôm thì Quận có tiền không ?
Như Ngọc nghĩ : anh Ba Trí đặt vấn đề mạnh quá, nghe thì hay mà chẳng biết có được chấp nhận không.
Lúc đó, Hai Hưng cười, nói :
– Cả chục triệu đồng thì lấy đâu ra ? Mà rồi các cậu làm ăn có nên nổi không ? Hay tung tiền ra rồi lỗ, rồi mất mát, hay chỉ được mấy căn nhà với tấm bảng nông trường thì sao ?
Ba Trí đáp :
– Đó, vấn đề ở chỗ đó. Các anh chỉ ủng hộ cái sự cứ trần thân ra mà làm, còn lời lỗ sao cũng được. Lỗ ít ít thôi cũng tốt, miễn là làm theo đúng ý kiến chỉ dạo của trên là được rồi…
– Nhưng có gì bảo đảm là tung vốn vào thì các cậu sẽ lãi ? Nếu mất vốn, ai chịu trách nhiệm ?
– Vậy anh cho phép tôi hỏi lại một câu, được không ?
– Cậu cứ nói.
– Vậy có gì bảo đảm nếu chúng tôi đưa quân xuống ở hẳn đây thì cuộc đời anh chị em sẽ rạng rỡ lên chớ không tàn lụi như mấy héc ta cói kia ? Ai sẽ chịu trách nhiệm về điều đó ?
Hai Hưng nổi nóng :
– Cậu nói năng nên cẩn thận. Nên nhớ các cậu là đảng viên, là đoàn viên chớ không phải dân buôn bán chợ trời mà đi mặc cả với Đảng trước khi lãnh công tác !
– Tôi là đảng viên, tôi biết trách nhiệm của mình. Nhưng anh chị em cũng đều là những con người. Tôi đã xin phép anh để nói về khía cạnh con người đó. Nếu anh muốn tôi chỉ nói ở góc độ của một đảng viên thì tôi đã nói rồi : nông trường ta đang đi theo hướng làm ăn không đúng, cần xoay hướng khác khoa học hơn, hiện đại hơn, hợp với thực tế hơn… Còn như cấp ủy chỉ thị thì chúng tôi xin nghiêm chỉnh chấp hành như từ đầu đến giờ, không có ý kiến gì nữa. Có điều tôi e nếu cứ hướng này thì chúng ta sẽ thất bại… Còn về con người thì tôi nghĩ rằng bất cứ điều gì liên quan đến con người, kể cả cái sai cái yếu của họ, cũng đều không xa lạ với Đảng, cũng đều phải được các đảng viên quan tâm, lo lắng… Lúc nãy tôi có nói về chuyện vợ tôi. Nhưng nói ra sợ các anh hiểu lầm là tôi vịn vào đó để thoái thác việc ra ở hẳn nông trường, nên tôi không nói… Tôi xin nói về anh chị em khác, mỗi người đều có khó khăn riêng, có cuộc đời riêng. Muốn xây dựng được nông trường, phải gắn chặt quyền lợi của họ với quyền lợi của nông trường và với lợi ích chung của đất nước. Nếu cho đó là sự mặc cả theo kiểu buôn bán thì tôi e rằng…
Ba Trí bỏ lửng câu nói.
Hai Hưng ngồi im lặng, mắt nhìn ra ngoài rừng Sác, ngón tay gõ gõ trên mặt bàn. Lê Quát nhìn Ba trí, khuôn mặt vuông màu đồng hun càng đỏ bừng bừng. Như Ngọc không hiểu anh ủng hộ hay phản đối Ba Trí. Còn cô thì thấy Ba Trí dám nói ra cái điều mà cô rất băn khoăn nhưng chắc cô không bao giờ dám nói ra.
Hai Hưng dịu giọng :
– Mình hiểu những điều cậu nói. Nhưng cậu cũng cần hiểu, mình chưa phải là người quyết định cuối cùng…
Ba Trí ngẩng lên nhìn Hai Hưng, nét mặt dãn dần ra. Anh nói giọng trầm trầm :
– Anh Hai à, tôi và nhất là anh Lê Quát, chiến sĩ trước đây của rừng Sác, chúng tôi không sợ gian khổ đâu. Điều chúng tôi sợ là cái cung cách làm ăn không khoa học, trì trệ, trói chân, trói tay… Xã hội cũ để lại cho ta nhiều thanh niên hư hỏng, cần cải tạo… Ta lại cần xây dựng kinh tế, bảo đảm an ninh, quốc phòng… Vì thế mà nông trường ta mọc lên giữa rừng Sác. Theo tôi, chủ trương vậy là rất đúng, hay nữa là khác. Nhưng khi ta xây dựng nông trường ở đây là ta làm khoa học, làm kinh tế để đạt tới yêu cầu chính trị đó… Vậy mà cách làm của ta thì không khoa học, không kinh tế chút nào và rốt cuộc yêu cầu chính trị tốt đẹp kia không đạt được, trái lại sẽ đi đến kết quả chính trị xấu. Kết quả đó sẽ động đến số phận, đến cuộc đời của từng con người tham gia xây dựng nông trường này…
Hai Hưng ngả người, tựa lưng vào gốc cột phía sau :
– Những việc đó vượt quá sức giải quyết của quận, có việc còn quá sức giải quyết của thành…
Lúc ấy, Mai Sương từ dưới bếp lên, mặt ửng đỏ, mồ hôi dính bết tóc mai. Cô vui vẻ bảo :
– Mời chú Hai với hai anh, với chị Ngọc sửa soạn ăn cơm cho nóng…
Bữa cơm có canh rau cải, mấy con khô nướng, và một dĩa tôm kho. Những con tôm thẻ bằng ngón tay, đỏ rực. Lê Quát vừa trông thấy tô canh đã sáng mắt lên, gắp một gắp rau to cho vào bát. Cơm nóng, canh nóng, anh xuýt xoa khen :
– Rau ngọt quá ! Nửa tháng nay mới có rau xanh.
Hai Hưng hỏi :
– Này, các cậu tìm đâu ra tôm thẻ to như vầy ?
Lê Quát nói :
– Đặt lọp. Dân ở đây người ta đặt lọp, đắp đập bắt tôm nhiều lắm. Ngày xưa tôi làm cái trò này để mà sống. Bây giờ đói, phải giở trò chớ sao ! Dân ở đây người ta cũng sống bằng nghề này…
Ba Trí cười tủm tỉm :
– Đó là cái hướng sản xuất mà tôi muốn chuyển qua. Đó cũng là lý do tôi nhận cô Ngọc về. Nếu làm tôm, tôi sẽ có đô la, tôi sẽ có tiền trả lại vốn đầu tư, sẽ có ngoại tệ mua nhiều thứ để phát triển nông trường, tôi sẽ có lãi nộp cho quận chớ không đi xin quận cấp cho từng đồng bạc như bây giờ đâu, anh Hai.
Hai Hưng cười :
– Vậy có cần cấp lu chứa nước nữa không ?
Lê Quát vội nuốt miếng cơm :
– Có chứ ạ ! Bước đầu, xin anh mười cái !
Hai Hưng cười, trợn mắt :
– Mười cái thì nhiều tiền quá ! Bước đầu, duyệt cho cậu năm cái !
Lê Quát kỳ kèo :
– Thôi thì ít nhất cũng tám cái cho đủ tám nhà.
Hai Hưng dứt khoát :
– Đã bảo năm là năm. Cậu làm dự trù đi, đưa lên quận duyệt cấp cho năm cái !
Như Ngọc gắp một con tôm, chan mấy thìa canh rồi bưng bát ra ngồi ghé ở mép giường. Trong miếng cơm của buổi đầu tiên ở nông trường, cô cảm thấy có vị ngòn ngọt, đăng đắng của rau cải và cái vị mằn mặn, chan chát của hạt cơm nấu với nước mặn. Cô gắp con tôm cong cong, còn cả râu, đưa lên ngắm, chưa nỡ cắn vào lớp vỏ đỏ hồng của nó. Cô nhìn Hai Hưng, Ba Trí, Lê Quát… Mỗi người, một cái nhìn khác, tuy cùng ăn chung một dĩa tôm kho…
Như Ngọc thấy lòng mình sao bâng khuâng, khó tả. Mọi khó khăn chú Hai Hưng đều nói “biết rồi”, nhưng hình như chú chưa biết gì cả ! Thiệt buồn… Anh Lê Quát thì nói rõ khó khăn, nhưng những yêu cầu của anh ấy lại vẫn loanh quanh trong cái thế khó khăn và càng dấn sâu hơn vào khó khăn. Còn anh Ba Trí thì lại… gần gũi với ông Đông Ki-sốt ? Anh ta cũng đang sửa soạn đánh nhau. Nhưng cối xay gió ở đâu ? Ai đã dựng nên những cối xay gió ấy ? Lê Quát ? Hai Hưng ? Song Hai Hưng đã nói ông không phải là người quyết định cuối cùng mà ? Như Ngọc đưa mắt nhìn cánh rừng mênh mông phía sau nhà, qua cửa sổ. Giữa trưa, gió biển thổi lồng lộng, quật ngã rạp những cây giá, cây mắm cỗi cằn vừa mọc lại sau mấy năm hết chiến tranh. Trong cái khoảng mênh mông sình lầy ấy, đôi bàn chân quen đi guốc cao gót của cô làm sao lặn lội tìm ra cho được gò đất đỏ, nơi chôn giấu hài cốt của cha cô ? Cô sẽ phải từ bỏ những con đường có lá me bay, có bông dầu quay như chong chóng, từ bỏ những buổi xi-nê Đồng Khởi, kem Bạch Đằng và phở Pát-xtơ, phải xa người mẹ già và những đứa bạn thân thiết… Để lặn lội đi theo ông “Đông Ki-sốt tân thời”, qua những cuộc đánh nhau xây xước mặt mày, ê ẩm thân mình, giữa sình lầy và nắng gió, với những chiếc cối xay gió vô hình nhưng rất gần gũi quanh ta ?
5. TRƯỜNG MỚI
Ly Ly theo anh thanh niên bảo vệ, mặc quần áo đen, có con đỉa trên vai, tay cầm khẩu súng cùng với một số anh chị em “học viên” mới đến, đi về phía dãy lán mái lợp lá. Năm cái lán xếp thành hình chữ U, xung quanh có một con hào rộng bao bọc. Ly Ly bước lên chiếc cầu làm bằng thân cây chà là ghép lại, bắc ngang mặt hào, để vào dãy lán “học viên”. Thật ra, về sau, Ly Ly mới biết cây này gọi là cây chà là. Còn bây giờ, đối với cô, mọi thứ cây đều lạ, cô đều không biết tên. Những thân cây tròn bằng cổ tay, có đốt như cây mía, à, giống đốt cây cau thì đúng hơn, vỏ bóng, màu nâu đỏ, làm cho chiếc cầu trông như một món đồ mỹ nghệ của xứ nhiệt đới mà cô thường thấy trong các cửa hàng Sài Gòn. Có điều nó rất to, khá chắc chắn, và trên thân cây lát mặt cầu, bùn đất trát từng mảng. Phải chi cầu được rửa thật sạch, cho màu vỏ cây bóng lên cái ánh nâu đỏ thì đẹp ghê ! Chà là ! Tên nghe quen quá. Ngày xưa, nhất là dịp Tết, cô hay được mẹ mua chà là về cho ăn. Quả tròn như ngón tay cái, mềm, ngọt gắt, trẻ con thích vô cùng. Nghe nói mấy ông Chà Và chở nó từ Ấn Độ hay Trung Đông sang, bọc trong những tấm da dê ! Ôi ! Những ngày thơ ấu đã qua… Ôi, người mẹ bất hạnh… Mỗi lần nhớ đến mẹ, Ly Ly đều rùng mình, cố xua đuổi hình ảnh cái hôm khủng khiếp ấy đi… Cô đưa mắt nhìn xuống mặt nước hào. Nước vàng khè, nổi váng. Sau này, cô mới biết đó là hồ cá rô phi do nông trường nuôi thí nghiệm. Dọc theo mép hào, có một hàng cây mới trồng, đang lên, lá dày xanh mướt, lại có cái búp màu đỏ giống như một cán viết lộn ngược, rễ cây màu nâu, cắm xuống nước, một vài rễ phụ ăn vòng ra, chụp xuống giông giống mấy cái chân máy chụp hình. Sau này, cô cũng mới biết đó là cây đước, mặc dù ngày bé, cô cũng đã từng nấu cơm bằng than đước… Mọi thứ trên đất nước, cách thành phố không xa, nhưng đều rất xa lạ với cô, cô nhìn cái gì cũng lạ, như một cô gái châu Âu bỗng dưng bị rớt máy bay xuống rừng ngập mặn xứ nhiệt đới vậy ! Thật tình mà nói, Ly Ly quan sát cảnh vật, hào hố không phải chỉ vì lạ lùng, tò mò. Cô còn có ý định riêng… Ly Ly chợt nhếch mép cười. Vừa cười cô vừa bĩu môi : Bắt mình ư ? “Cải tạo” mình ư ? Xin thưa : còn khuya. Đối với Ly Ly, đây chỉ là một chuyến du lịch không mất tiền ! Dù có hơi vất vả ! Cứ chờ xem…
Bước qua đầu cầu bên kia là phần đất dành cho “trường học”. Ngay đầu cầu, Ly Ly thấy một trạm gác nhỏ bằng lá dừa trong đó có anh thanh niên bảo vệ ngồi canh, súng dựng bên vách, trước mặt là cái ba-ri-e cũng làm bằng một thân cây chà là. Toán người, theo thứ tự, đi qua cổng chắn. Anh bảo vệ chăm chú nhìn như nhận mặt từng người. Đến lượt Ly Ly, anh ta vụt nhổm dậy. Rõ là Ly Ly đã gây cho anh ta một ấn tượng nào đó. Cô biết, sắc đẹp cô có tác động đến những người con trai, và cách ăn mặc của cô, cũng khác. Song cô vội quay mặt đi. Từ ngày giải phóng, cô không ưa, hơn nữa là sợ những người cầm súng. Còn với những người cầm M16 của Mỹ trước đây, tỳ bá vào bắp tay, chĩa nòng lên trời, cô lại thấy gần, dễ xáp vào hơn. Cô bước nhanh qua cổng chắn vừa nghĩ : dù sao đây chẳng phải là cái gì đáng sợ lắm… Mảnh sân rộng trước mặt Ly Ly còn ướt nước, mặt sân đầy những bùn và vết chân, vết dép nát nhừ. Giữa sàn, một cột cờ, nhưng không có lá cờ trên đỉnh cột.
Gian nhà dành cho nữ nhìn thẳng ra cầu. Còn lán của nam “học viên” chạy dọc hai bên, mỗi bên hai gian. Sau khi nhận chiếu mùng và tấm đắp, Ly Ly và mấy chị em được dẫn về gian nhà của nữ. Mùng, chiếu và tấm đắp được phát không, tấm đắp dệt hình rồng phượng, Ly Ly nhớ ở Sài Gòn, người ta bán một trăm đồng. Mùng bằng vải xô, tuy còn mới nhưng rờ tay vào ẩm ẩm, rin rít, mùi mốc mốc. Bước vào lán, Ly Ly hơi bỡ ngỡ : dọc theo chiều dài của gian nhà, mỗi bên là một cái giường, không, đúng hơn là một cái sạp chạy suốt cũng bằng thân cây chà là ghép lại với nhau, trên có trải những manh chiếu. Mỗi manh chiếu là “giang sơn” của một người, Ly Ly thấy trên các đầu nằm, tấm đắp dệt hình rồng phượng đỏ được gấp lại vuông vắn, đặt trên cái mùng, cũng gập cẩn thận. Còn mọi thứ đồ dùng cá nhân thì cất trong những làn nhựa, những túi du lịch, túi xắc muôn màu muôn vẻ, treo lủng lẳng vào các móc phía trên đầu nằm của mỗi người. Ly Ly nghĩ : mình sẽ phải ngủ trên cái sạp công cộng này rồi. Nhìn những cây chà là lên nước bóng, to bằng cườm tay mà ớn. Chắc là đau lưng lắm. Mình nằm đệm mút quen rồi, nằm đi-văng còn đau xương nữa là… Tuy vậy, cô vẫn trải manh chiếu của mình lên chỗ sạp còn trống ở phía góc trong, và đặt cái xắc lên sạp, ngước nhìn mái nhà. Cô ngần ngừ : treo đồ lên kia lỡ ai lấy mất thì sao ? Bây giờ, mỗi thứ mang ra đây đều quí, từ cái áo pun, quần gin đến áo quần lót… cũng đều cần, mất làm sao sắm được ?
Ly Ly tần ngần đứng nhìn hai dãy sạp. Cô nhẩm đếm được hơn ba mươi cái chiếu. Đông quá ! Té ra dân Sài Gòn lâm vào hoàn cảnh như mình không phải ít. Chẳng biết ở rừng Sác có bao nhiêu “trường học” như vầy ? Lán vắng vẻ. Họ đi đâu hết ? Chỉ có năm ba chị em nằm trên giường, nửa thức nửa ngủ có vẻ bệnh hoạn hay sao… À, còn số kia, có lẽ họ đi làm. Ly Ly thoáng rùng mình. Ở đây, người ta bắt đi làm việc gì nhỉ ? Mới nghĩ đến chuyện lội ra bãi rừng lầy ngoài kia, Ly Ly đã thấy ớn, chưa nói đến chuyện làm. Chẳng biết dối với con gái, người ta có chế độ gì riêng không ? Có lẽ mình phải giả bệnh, kiếm cớ nằm nhà, rồi sẽ tính… Ly Ly trèo lên sạp, ngả người gối đầu vào túi xách, chân co chân duỗi, tay để lên bụng, tay gác trán, mắt lim dim, vẻ mệt mỏi. Trời mưa, nắng lóa, nóng oi oi. May mà chỗ này có cái cửa sổ, gió mát vầy mà không ai tới chiếm há ? Mình còn hên. Thèm rửa mặt quá, nhưng xung quanh chẳng đâu có nước sạch.
Thân cây chà là cấn vào lưng ê ẩm, Ly Ly nằm nghĩ mông lung. Ở Sài Gòn, tuy làm nghề ăn cắp, buôn lậu, Ly Ly vẫn tạo cho mình một cuộc sống bề ngoài có vẻ lương thiện. Cô thuê một căn gác nhỏ có lối ra vào riêng, trong ngôi nhà của hai vợ chồng công chức cũ về hưu sống bằng nghề buôn bán lại những đồ lặt vặt như bóp đầm cũ, giày dép cũ, máy xay sinh tố, băng học tiếng Anh… trên các vỉa hè gần chợ Tân Định. Cô rất lễ phép với hai ông bà, cô quan hệ tốt với anh cảnh sát khu vực, trong hộ khẩu, cô khai là cháu họ của bà và nghề nghiệp là làm công cho một sạp buôn ra-đi-ô cát-xét ở chợ trời. Anh công an một vài lần đi kiểm tra thấy cô có mặt ở sạp đó, rành rẽ các thứ máy móc. Cái vỏ bọc ấy giải thích lối sống và nguồn thu nhập của cô. Hơn nữa, trong thâm tâm, cô vẫn mơ ước một cuộc sống lương thiện, hai vợ chồng và một đứa con… Cô muốn sống lương thiện lắm chứ, có điều là trong quan niệm “lương thiện” đó, cô không muốn nghĩ đến phải làm việc, phải lao động. Người ta sống ở đời là để hưởng mọi thú vui của cuộc sống. Mục đích của lao động là cái gì, nếu không phải để cho con người được sống sung sướng ? Cuộc sống cũ đã dạy cho cô điều ngược lại. Làm người lương thiện, ôi chao, sao khó quá vậy !
***
Ly Ly thở dài, mở mắt ra. Bỗng cô nghe có tiếng ồn ào. Cô nhổm dậy, ghé mắt nhìn qua cửa sổ. Bên kia con hào, trên đường đất lổn nhổn, một đoàn người từ trong rừng lầy đi về. Đám con trai mặc quần cụt, có người ở trần, có người đội nón vải lính ngụy, có người phơi đầu trần tóc vàng cháy. Người nào người nấy bê bết bùn đất từ đầu đến chân. Họ cười đùa, chửi thề văng mạng, nghịch ngợm, đuổi nhau huỳnh huỵch, trêu chọc đám con gái. Đám này có người áo pun, người áo sơ mi, người mặc quần tây, người quần bà ba đen, cũng bê bết bùn, và cũng ăn miếng trả miếng với bọn con trai chứ không vừa. Mọi người xăm xăm đi ra phía bờ sông, chắc là để tắm rửa. Đi sau cùng là một anh bảo vệ, vai mang súng, bước uể oải. Ly Ly nghĩ : “học viên” của trường. Ít hôm nữa, mình sẽ bị bắt buộc phải đi làm, sẽ lấm bùn đất bê bết như chị em kia, đào đất, ôm đất. Ớn quá ! Mình có chịu nổi để “tiếp thu cải tạo, thành người tiến bộ” như lời anh cán bộ ở trại giam nói hay không đây ? Bỗng cô thấy một cậu thanh niên chắc vừa chọc ghẹo người ta sao đó, bị một cô gái đuổi đánh, chạy ào ào, vừa chạy vừa xô những người phía trước. Cô gái mặc áo pun màu đỏ đuổi theo, tay giơ một nhánh cây đầy lá xanh, miệng la om sòm. Rồi Ly Ly thấy có một anh to con đi trước, quay vụt người lại, vung tay tóm được cánh tay trái của anh chàng đang chạy. Anh này mất đà, quay nửa vòng, xô vào những người chung quanh. Cô gái phía sau rượt tới, thuận tay quật tới tấp cành lá xanh lên đầu anh ta. Lá nát ra, bay lả tả. Anh ta vừa giơ tay che đầu vừa kêu : “Anh Sơn ơi, tha cho em !” Anh chàng to con nói : “Xin lỗi nó đi, rồi tao tha !”. Chú chàng đành xuống nước : “Chị Hai ơi, em xin lỗi. Từ đây sắp lên, em không dám vậy nữa !” Ly Ly nhìn anh chàng to con, tóc dài loăn quăn vàng hoe, mặc quần đùi, cởi trần. Giữa bộ ngực nổi bắp lực lưỡng có xăm hình một cái đầu bò, với hai sừng nhọn hoắt như sẵn sàng húc ai. Cả đám cười rộ lên : “Lủi đi đâu không lủi, lại lủi vô Sơn Đầu Bò !” Rồi họ kéo nhau ra bờ sông. Còn vọng lại tiếng cười đùa, la hét đến tai Ly Ly. Cô thấy vui vui. Dù sao cũng là một không khí trường học chứ không phải trại nhốt tù như cô vẫn nghĩ. Lát sau, họ ồn ào về lán. Đám con gái tóc ướt nước, lần lượt bước vào nhà, sau khi phơi quần áo trên sợi dây điện căng trước sân. Ly Ly nhận ra cô gái được gọi là “chị Hai” lúc nãy. Cô này vừa trông thấy Ly Ly đã hầm hầm đi tới leo phắt lên sạp, đỡ cái làn nhựa xuống vừa lấy gương lược, vừa lục tung như muốn kiểm lại xem đồ đạc mình có mất gì không. Cô lấy chân hất chiếu Ly Ly ra, nói trống không, hạch sách : “Ai cho nằm đây !” Ly Ly đã thấy tức, cũng nói trổng : “Thấy trống chỗ thì nằm !”. “Chị Hai” hất hàm sang dãy sạp đối diện :
– Bên kia cũng còn chỗ trống…
– Thích nằm đây. Gần cửa sổ. Mát.
“Chị Hai” lõ mắt nhìn Ly Ly :
– Nhưng tôi không thích có người nằm một bên…
– Tùy chị thôi. Ai thích sao, làm vậy…
“Chị Hai” đã rút gương lược ra định chải tóc, lại ném vào làn kêu lên :
– A ! Giỏi thiệt !…
Cô ta định sinh sự nhưng may thay, lúc đó, bỗng có mấy tiếng kẻng vang lên. Mọi người chộn rộn vơ lấy ca nhôm, ca sắt… Giờ ăn đã tới. Hai cô “học viên” làm cấp dưỡng khuân vào hai xoong to đựng cơm và canh. Cơm canh bốc khói nghi ngút. Chị em học viên sáng mắt lên : Hôm nay cơm trắng và nhiều, có thể ăn no và có rau cải ! Mới có chuyến tiếp tế từ thành phố tới mà. Mọi người ngồi ở mép sạp, chia ca của mình ra. Hai cô “cấp dưỡng” xúc cơm cho từng người, chan canh, bỏ lên một con cá kho và vài miếng thịt nữa. Người nào được cơm cũng đều ăn có vẻ ngon lành. Chắc họ làm việc, đói. Đến lượt “chị Hai” rồi Ly Ly. Ly Ly cũng được báo trước nên sắm sẵn một chiếc ca nhựa to màu vàng cam, một cái muỗng xúp Mỹ, mang theo đến trường. Cô xúc cơm đưa lên miệng nhai uể oải, nhớ đến những tiệm ăn sang trọng, hay chí ít cũng là một dĩa cơm ca ri gà mỗi buổi trưa ngồi bán ở chợ trời. Có khi là một dĩa cơm sườn, miếng thịt thăn mỏng nhưng nướng khéo, thơm phức, chan với nước mắm tỏi ớt ngòn ngọt, cay cay và những miếng dưa leo xắt nhỏ mát ruột, những lá rau húng thơm thơm… Bữa cơm của trường học mới, dù là bữa cơm có rau xanh, ít lát thịt tươi, Ly Ly cũng khó nuốt trôi. Cô cảm thấy cổ mình nghèn nghẹn. Thôi, phải tập ăn cực cho quen. Những ngày cuối đợt tiếp tế, chắc còn khổ hơn nhiều…
Ăn hết mấy miếng thịt, Ly Ly rụt rè cắn vào con cá. Ôi, sao nó có mùi hôi hôi như mùi bùn ! Chắc là cá bắt ở các hào đầy váng nước phèn quanh trại. Ly Ly thấy nhợn, miếng cơm nuốt nửa chừng tắc ngang. Và bất ngờ, cô sặc một phát. Búng cơm bắn ra, vãi xuống chiếu Ly Ly, bắn sang cả chiếu của “chị Hai”. Cô này quay sang, trừng mắt, la lên :
– Ăn uống vậy hả ?
Ly Ly nói ngay :
– Tôi không cố tình…
Câu nói vội làm cô sặc tiếp mấy cái. “Chị Hai” hầm hầm đứng lên, cầm chiếu, hắt những hạt cơm vãi vào mặt Ly Ly, trề môi nói :
– Hừ ! Đồ con gái ham ăn hốc uống, sặc cơm tùm lum. Dơ dáy quá ! Đi chỗ khác.
Ly Ly không dằn được nữa, buông ca cơm đứng dậy, đối mặt trên sạp, vừa nuốt nghẹn, vừa nói :
– Tôi không đi đâu hết ! Còn ai không thích thì cứ tự do đi chỗ khác.
“Chị Hai” trợn mắt :
– A ! Con này giỏi ! Không đi hả ?
Cô ta lấy chân gạt chiếc chiếu của Ly Ly ra xa làm đổ luôn cái ca màu vàng cam. Cơm, canh, và miếng cá còn lại tóe ra trên chiếu. Ly Ly không vừa. Cô cũng co chân đá hất ca cơm của “chị Hai” bắn luôn xuống đất. “Chị Hai” la lên một tiếng, xông vào tát Ly Ly. Ly Ly bắt được tay cô ta, lấy sức, dúi cô ngã chổng kềnh về phía sau. Sạp giường kêu đánh rầm một phát, chị em trong lán la lên bài hãi. Người nào người nấy lo cho phần cơm của mình vội ôm ca chạy dạt ra. Có cô phóng tuốt ra ngoài sàn, la om sòm…
Bên lán nam, thấy có chuyện lộn xộn, mọi người ùa ra đứng nhìn sang. Có mấy người còn chạy qua tới nơi, trong đó có Sơn Đầu Bò. Anh em tổ bảo vệ chẳng hiểu sao mà cả mấy trại đều nhốn nháo nên sợ loạn, vội bắn lên mấy tiếng súng…
Lúc ấy, trong nhà nữ, Ly Ly đã nhảy theo, đè sấp “chị Hai” xuống sạp, ngồi lên mông “chị Hai” và bẻ quặt tay chị ta lên, theo một thế võ mà cô đã thạo. “Chị Hai” rên lên khi thấy Sơn Đầu Bò vừa chạy vào :
– Anh Sơn ơi ! Nó đánh em…
Sơn Đầu Bò nhảy tới định can thiệp nhưng Ly Ly trừng mắt nạt ngang :
– Chuyện con gái. Đừng nhúng tay vô, đại ca ! Mất thể diện đàn ông !
Sơn Đầu Bò sượng lại. Anh ta chỉ còn biết đưa hai tay chống nạnh, ưỡn cái ngực rộng có xăm hình đầu bò cong sừng ra, miệng hỏi :
– Làm sao ?
Ly Ly nhìn anh ta, nháy mắt cười :
– Ma cũ ăn hiếp ma mới !
Sơn Đầu Bò cũng phá lên cười :
– Bây giờ ma mới ăn hiếp lại ma cũ chớ gì ? Thôi, huề.
Ly Ly buông tay “chị Hai” ra :
– Nể lời anh Sơn, tôi tha cho chị…
Lúc ấy, Lê Quát và Ba Trí đang ăn cơm bên kia, nghe tiếng súng, tưởng đâu có chuyện gì ghê gớm, vội buông đũa, chạy bổ sang. Đến nơi, cảnh tượng vẫn còn y : cơm canh đổ vung vãi trên giường, dưới đất, xung quanh, các cô gái xúm chật ở cửa. Sơn Đầu bò chống nạnh hai quai nhe răng cười, còn trên sạp, Ly Ly đang cưỡi trên mông “chị Hai”. Chẳng có chuyện gì ghê gớm. Hình như là họ đang đùa nghịch, tuổi trẻ cộng với cái tánh ngang tàng anh chị… Ba Trí bậm môi cho ra vẻ nghiêm khắc, cố nhịn cười. Còn Lê Quát thì tức giận thật sự. Anh nạt lớn :
– Mấy cô định giở cái trò gì đấy hả ?
Ly Ly rời khỏi đối thủ, vẻ ngượng nghịu :
– Dạ thưa quí anh, chẳng có gì lớn đâu. Một hành động tự vệ…
Lê Quát giận dữ nói :
– Tự vệ cái gì ? Mấy cô không coi kỷ luật của trường ra cái gì cả à ?
“Chị Hai” lúc đó đã ngồi dậy được, lấy tay cào mái tóc rối :
– Thưa anh Tư, con kia nó ăn cơm rồi sặc ra đầy giường, em nói nó đi chỗ khác, nó còn đánh em !
Lê Quát gạt ngang :
– Đã bảo là học viên không được gọi nhau bằng “con nọ”, “con kia”. Ăn nói cho nghiêm chỉnh nào ! Cô là Hai Ngà chứ một chục ngà mà làm loạn tôi cũng bẻ ráo hết !
Ly Ly được dịp, lên tiếng :
– Thưa quí anh, tôi lỡ làm cơm bắn sang chiếu của chỉ, vậy là chỉ đánh tôi ! Tôi phải tự vệ.
Lê Quát cau mày :
– Đánh lộn trong lán là vi phạm kỷ luật. Hai cô sẽ bị kỷ luật. Cô Hai Ngà, cô là học viên cũ, cô bị kỷ luật nặng hơn. Còn cô Ly, tôi đổi chỗ cô sang bên kia (anh giơ tay chỉ chỗ trống ở sạp đối diện). Hai cô phải cách ly ra. Thôi, dọn dẹp ngay cho sạch sẽ.
Cô Hai Ngà cảm thấy mình có vẻ thắng cuộc, vội vàng bước xuống đất thực hiện lệnh của Lê Quát. Còn Ly Ly, cô gạt cơm trên manh chiếu vào cái ca, bụng vẫn ấm ức. Chợt Lê Quát nhìn lại Sơn :
– Còn cậu ? Sang đây làm gì ?
Sơn lúng túng :
– Tôi thấy họ đánh lộn, tôi qua can.
Lê Quát nói :
– Chẳng có chuyện gì cả mà ồn lên. Thôi, ai về chỗ nấy.
Khi Sơn sắp quay lưng ra khỏi lán thì Lê Quát gọi lại :
– Này Sơn, chiều nay cậu cũng lấy mười anh em hôm trước vác gạo ở ghe máy lên nhé !
Sơn dừng lại :
– Dạ, cũng làm y như bữa hổm ?
Lê Quát gật :
– Ừ. Nhưng phải cẩn thận đấy.
– Rõ !
Sơn thong thả trở về lán bên kia.
Ra đến chòi canh, Lê Quát còn dừng lại, chỉnh cho cậu bảo vệ một trận.
Ly Ly xách chiếu ra sân, giũ cơm cho sạch, lòng còn bực tức. Kỳ quá ! Bị đánh thì không được đánh trả. Luật lệ mới này mình không quen. Tuy nhiên, khi Ly Ly mang chiếu vào, trải sát chỗ vách trống thì cô gái nằm phía đó mời Ly Ly :
– Chị Ly, trải chiếu kế bên em đây mà nằm cho vui.
Ly Ly còn dỗi :
– Cảm ơn. Tôi nằm trong góc được rồi.
Cô gái nói :
– Chị nằm xé lẻ như vậy ông Tư Quát thấy, ông lại la.
Mấy cô gái khác cũng phụ họa :
– Phải đó. Ổng biểu nằm thành khối, chiếu nọ khít chiếu kia.
Một cô mời :
– Hai chị thích nằm gần cửa sổ thì tôi đổi chỗ cho.
Ly Ly cám ơn, kéo chiếu mình sát lại, cảm thấy có phần thắng… Dù sao thì chị em ở đây họ cũng đã nể mặt mình.
Mấy tiếng kẻng buông thong thả. Giờ nghỉ trưa. Phải trật tự và im lặng. Mọi người vội vàng làm nốt các việc dở dang rồi lên sạp nằm. Ly Ly cũng ngả lưng xuống, tấm chăn và cái mùng làm gối. Cô thầm nghĩ : mình không thể ở đây được. Phải kiếm cách trốn về Sài Gòn thôi… Sống tự do, khôn được dại thua, không theo một khuyôn khổ xã hội nào hết. Đó mới là nếp sống của cô… Nhưng mà… mình đang thua ! Thua nhưng chưa hàng đâu ! Còn lâu !…
Ly Ly nằm gác tay lên trán, suy nghĩ, tìm phương kế trốn. Con hào, trạm gác, đối với cô chẳng ăn thua gì. Nhưng thoát ra khỏi trại thì chạy đi đâu ? Bốn bề rừng lầy ngập mặn, sông rạch chằng chịt, đường hướng không biết… Chạy trốn làm sao ? Nhưng nếu ở đây hàng ngày đi làm việc như mấy chị em kia thì cũng chết… Cô là người sinh ra để hưởng thụ chứ không phải để dựng xây, cho dù cô biết rằng thời thế đã đổi khác, cho dù người ta có lòng tốt muốn “giáo dục”, “cải tạo” cô. Cô biết làm gì khác hơn là chạy trốn cái thực tế quá khắc nghiệt này ? Nghĩ mãi không ra, Ly Ly thiu thiu ngủ. Trong giấc mộng chập chờn, bỗng óc Ly Ly như có một tia chớp chạy qua. Cô tỉnh hẳn. Ừ, phải rồi ! Phải làm một cú bất ngờ ! Cái anh Lê Quát này coi bộ chặt chẽ nghiêm khắc lắm. Tổ chức, kỷ luật… coi bộ qui củ, đàng hoàng lắm. Nhưng anh ta suy nghĩ theo kiểu… xã hội, kế hoạch… Mình phải cao thủ hơn, đánh cú bất ngờ, “ngoài kế hoạch”. Đầu óc cô rộn lên, suy nghĩ, tính toán… mải mê…
Khi tiếng kẻng gọi thức vừa vang lên, Ly Ly đã bật dậy, sang lán nam xin gặp Sơn Đầu Bò để… cảm ơn anh đã giúp “xử huề”. Hai người trao đổi riêng vài ba câu gì đó. Sơn sững lại, hơi ngạc nhiên. Còn Ly Ly vội vã trở về. Sau đó, Sơn trầm hẳn xuống như một người ốm, rồi ôm bụng, lên giường nằm.
Buổi chiều, mọi người ngồi quây quần bên sạp, “học tập” như thường lệ. Một anh cán bộ nhà trường giảng về “chủ nghĩa tư bản”, “chủ nghĩa xã hội”, về “lao động là vinh quang, ăn bám là xấu xa”… Ly Ly ngồi nghiêm chỉnh nhưng chẳng nghe gì hết. Cô còn mải tính toán…
6. MAI SƯƠNG
Buổi chiều cơm nước xong, các anh đã rút về phía lán nam ở sát bên cạnh. Như Ngọc và Mai Sương mang hai cái ghế ra trước nhà ngồi chơi. Chiều đã xuống. Gió biển thổi rào rào, thả sức chạy rông trên cánh rừng ngập mặn hoang vu, uốn rạp những khóm cây giá, cây mắm thấp lè tè. Nước triều đang lên, ngập tràn con mương rộng trước lán, ngập hết rễ mấy hàng đước mới trồng dọc bờ mương. Như Ngọc chăm chú theo dõi con vật giống như con cua, mai to cỡ bao diêm, bám đầy bùn, chậm chạp buông xuống nhấc lên những cái que, bò ngang mặt bùn nhão, để lại trên đường nó đi qua một vệt lỗ chân lấm tấm như có ai lấy que tăm mà chọc xuống mặt bùn. Nó đi lênh khênh, nhẹ nhàng, như… cái xe đi trên bề mặt cung trăng mà cô vẫn thấy người ta vẽ hình trong phim hoạt họa. Con vật bám vào rễ đước cong đang ăn vòng từ thân cây cắm xuống đất rồi nhẹ nhàng trèo lên. Như Ngọc quay lại hỏi Mai Sương lúc ấy đang bê hai chén nước ra :
– Con gì đây nè ?
Mai Sương cười :
– Con ba khía !
Như Ngọc sáng mắt lên : à ra con ba khía, gọi như vậy là vì chân nó dẹp, hình thành rõ nét ba cái khía. Ngày xưa Như Ngọc vẫn hay ăn ba khía muối, do bà ngoại đi chợ mua về, xé ra, ướp tỏi, ớt, chanh đường, ăn ngon và “bắt cơm” ghê lắm. Đọc sách, cô cũng biết ba khía là con vật sống ở rừng lầy ngập mặn. Nhưng bây giờ, trông thấy nó đang sống, đang bò trên bùn, đang trèo lên cây ở giữa môi trường thiên nhiên của nó, cô thấy vui thích như vừa khám phá ra đều gì thú vị của sự sống, phải thích nghi, phải biến đổi mới tồn tại nổi trên rừng ngập mặn này… Mai Sương tủm tỉm cười, nói :
– Chị biết không, cái ngày em mới ra đây, ban đêm, em ngủ với ba khía…
Như Ngọc quay vụt sang, tròn mắt hỏi :
– Sao ? Đêm ngủ với ba khía ?
Mai Sương phì cười :
– Ừ thiệt ! À, mà không… Nhưng… đó là một ấn tượng thiệt là đặc biệt… Vầy nè : Hôm đó, anh Lê Quát, em và năm bảy đồng chí nữa, những người đầu tiên của nông trường, đổ quân lên cái doi đất ngoài bờ sông chỗ nghe máy hay cặp bây giờ đó. Dỡ đồ đạc lên : nào cột kèo, tre lá làm nhà, nào bàn ghế, mễ sạp kê giường (giường mình nằm bây giờ nè) nào nồi niêu, gạo thóc, mắm muối… Xung quanh lúc đó toàn rừng là rừng, như rừng ngoài kia kìa. Chưa có gì hết. Mấy anh dựng cột, lợp nhà tạm. Em quơ củi, lo cơm nước. Đến chiều xong gian nhà có thể che mưa nắng. Tối đến, có cái giường, các anh mới lắp cho em nằm. Còn anh Lê Quát và mấy anh nữa thì treo võng xung quanh “bảo vệ” em. Em giăng mùng, chun vô, vì muỗi như vãi trấu. Đặt lưng xuống một chút là em ngủ vùi, vì suốt ngày làm mệt quá. Thẳng một giấc, mở mắt ra thì trời rạng sáng. Lắng nghe chung quanh, mấy anh còn ngủ khò. Em trở dậy, tính đi vệ sinh sớm cho tiện. Vừa khoát mùng, thò chân xuống đất, em giật thót, vội co cẳng lên liền. Đất ướt lầy nhầy… Kiếm hoài, không thấy dép đâu, chỉ thấy trên mặt bùn những vết gợn như vết chân con gì ý ! Em sợ quá, thoáng nghĩ : hay là cá sấu ! Người ta đồn ở rừng Sác này, cá sấu dữ lắm. Khéo ban đêm, nó lên, ăn mất hết dép ! A, chị đừng cười. Bởi vì lúc đó, em nhìn xuống đất thấy dép của các anh cũng đều mất sạch. Ở đây không có người, rừng hoang. Nếu có ăn trộm thì nó lấy thứ khác đáng giá hơn, sao chỉ lấy dép ? Nhất định là có con quái vật nào đó, ban đêm từ dưới sông bò lên ăn dép ! Lúc đó em nghĩ như vậy. Sợ quá, em thụt vô mùng. Thì trời ơi, chung quanh vách mùng, con gì cứng cứng, cứ nhúc nhích như sắp tấn công vào bắt em. Em sợ quá, la lên. Anh Lê Quát bật dậy, quát hỏi : “Cái zì thế”. Em chỉ con vật đang ngọ nguậy ở vách mùng : “Anh ơi, con gì nó muốn vô cắn em…” Anh Lê Quát nhảy xuống đất, nắm mùng giũ mạnh. Con vật rơi phịch xuống đất, rồi bươn bả chạy. Anh cười phá lên : “Con ba khía chứ con gì ! Cô làm anh tưởng có bọn phản động tới đánh úp !”. Em vẫn còn sợ : “Anh ơi, còn nữa, đầy xung quanh bốn chân mùng em nè !”. Anh Quát giở một góc mùng lên : ba bốn con mắc cẳng vào lỗ mùng, cục cựa ở đó mà không chạy được. Anh Quát la lên : “Mang cái nồi lại đây. Bắt ba khía chốc nữa ta nấu canh chua. Ồ, nhiều quá !” Mấy anh khác cũng xúm lại, giở chân mùng lên, bắt ba khía. Em mới nhớ sực ra : Ban đêm nước triều dâng lên, ba khía bò lan, trèo lên cột, lên giường em rồi vướng chân vào màn không đi đâu được nữa. Sáng ra, nước rút hết, chúng nó thành tù binh của em. Còn dép thì nước triều dang lên, đẩy đi lung tung, lúc nước rút xuống cuốn trôi lung tung. Sau em và mấy anh đi kiếm, nhặt được ở gốc mắm, gốc già ngoài rừng kia, mỗi nơi một chiếc, có người mất luôn. Vừa gỡ ba khía mắc trong mùng ra, mấy anh vừa chọc em : “À, đêm qua, con Sương nó ngủ với ba khía ! Con nhỏ này thịt thơm nên ba khía mới bu vô tấn công ! Suýt nữa ba khía nó khiêng xuống sông mà không biết”. Em mắc cỡ quá. Thiệt tình thì ban đêm ba khía theo nước lên, bò tùm lum. Các anh treo võng, ba khía không bò tới. Còn em, giường mùng đàng hoàng… Mà vải mùng, chị biết không, người ta dùng làm rập bắt cua đó ! Từ cha sanh mẹ đẻ, mình ngủ ở Sài Gòn, đêm ấy lần đầu tiên em ngủ giữa rừng ngập mặn mà ngủ với ba khía !
Nghe Mai Sương nói, Như Ngọc cũng phì cười, hỏi dò :
– Nè, vậy đêm nay mình có phải ngủ với ba khía không ?
Mai Sương khoát tay :
– Chị khỏi lo ! Sau này chúng em đào đất, đắp nền nhà cao ráo, nước triều chẳng thể nào dâng tới nền nhà được. Khỏi phải sợ ngủ với ba khía ?
Như Ngọc liếc nhìn Mai Sương, lòng thầm mến. Một cô gái, trẻ hơn mình mấy tuổi, người nhỏ nhắn, mặt trái xoan, tóc cặp sau lưng, nước da hơi tái… Cô đã ra đây từ buổi nông trường còn là một cánh rừng hoang, đã góp công đắp nền, dựng nhà, đắp đường để hôm nay mình “khỏi ngủ với ba khía”. Cái gì đã thúc đẩy cô ra đây nhỉ ? Cô nghĩ gì về việc xây dựng nông trường này ? Như Ngọc hỏi :
– Ở thành phố, nhà Mai Sương, quận nào ? Ba má bây giờ vẫn còn đó chớ ?
Mai Sương ngước mắt nhìn cánh rừng chiều gió lộng, thong thả trả lời, như tâm sự :
– Nhà em ở quận 11. Ba em có nghề thợ hàn, làm công trong một xưởng nhỏ bán song cửa sắt ở quận. Má em buôn bán ở chợ Bình Thới. Cũng không có gì đặc biệt. Như ngàn vạn gia đình khác ở Sài Gòn thôi. Ba mé em đông con, tới tám người. Em thứ tư. Anh Hai em tới tuổi quân dịch, nhà không có tiền lo lót, trốn tránh mãi rồi cũng bị bắt lính. Và cũng vì không tiền nên bị đưa ra vùng một chiến thuật, chết trận tại đó, bây giờ mồ mả ra sao cũng chẳng biết. Má em lâu lâu nhớ ảnh, lại đốt nhang vái, rồi lại kóc. Má em nói phải giải phóng sớm vài năm, có khi anh em khỏi chết. Anh cao lớn đẹp trai lắm chị à. Hát hay, có khi đi làm tài tử xi nê được đó. Cả nhà ai cũng tiếc. Còn chị Ba em, lấy chồng được vài năm, sanh một cháu bé, chồng bị bắt lính cũng chết trận luôn. Bây giờ chị bồng con về ở với ba má em. Nhiều đêm, chị khóc, nói với em : phải chi hồi đó chồng chị đi giải phóng, rủi có hy sinh thì bây giờ cháu bé cũng là con liệt sĩ. Bây giờ khi không mang tiếng vợ lính ngụy, con thì thành con lính ngụy. Còn người ta đi giải phóng, cũng chết trận mà được bằng Tổ quốc ghi công, hằng năm phường khóm tới thăm, ấm áp trong lòng, con cái đi học mẫu giáo được chăm nom, quí mến hơn… Thấy anh chị như vậy, em nghĩ : con đường đi quan trọng lắm, nó làm cho mình thảnh thơi hay đau khổ suốt cả một đời. Năm mới giải phóng, em học lớp 11, tham gia ngay phong trào học sinh, đi suốt ngày có khi gần thiết quân luật mới về nhà. Rồi em vào Đoàn… Mà… cũng như mọi người khác thôi, chị à. Lúc đó, ở trường em, ở phường khóm em, thanh niên ai cũng như vậy hết. Nhiều bạn em đi Thanh niên xung phong nữa. Hăng lắm. Tưởng đâu năm ba năm mình có thể xây dựng ngay chủ nghĩa xã hội ! Vả lại nhà em lúc đó đông miệng ăn, có phần túng bấn. Em cũng lớn rồi mà không nuôi nổi mình sao, ăn bám ba má sao ? Có bữa sanh hoạt câu lạc bộ, anh Ba Trí đến nói chuyện mở nông trường, em nghe rất hay, thích lắm, liền về nhà xin ba má đi. Ba má sợ em khổ, nhưng em không sợ chút nào, điếc không sợ súng mà. Lúc đó em mê đọc Thép đã tôi thế đấy, nghĩ rằng chỉ khổ như Pa-ven ở công trường Bai-rơ-kha là cùng chớ gì ? Mà dù có chịu khổ, dứt bỏ mối tình đầu, đau ốm bệnh tật như Pa-ven thì ai cũng thấy hay thấy phải… Em dỗi, em khóc… Cuối cùng thì ba má cũng cho em đi. Còn anh Ba Trí và mấy anh ở quận đoàn thì thôi khỏi nói, hoan hô rần rần. Và rồi em theo các anh trong đội tiên phong do anh Lê Quát chỉ huy, xuống đây mở nông trường. Cái đêm đầu tiên là cái đêm ngủ với ba khía đó !
Kể đến đây, Mai Sương dừng lại, cười khúc khích. Như Ngọc quàng tay qua ôm đôi vai tròn và nhõ nhắn của người bạn gái mới quen mà sao gần gũi quá. Hình như cô đã gặp một người bạn như vậy ở khắp nơi trên đường phố Sài Gòn, một vài năm sau ngày giải phóng. Cô nghĩ : lúc đó, nếu mình không vào đại học, chắc mình cũng đi Thanh niên xung phong hay đi xây dựng nông trường như Mai Sương. Mai Sương ngả đầu vào vai Như Ngọc. Mùi tóc lâu ngày không có nước ngọt và chanh để gội thoảng qua làm cho Như Ngọc càng thêm thương yêu và mến phục cô gái này. Về tuổi thì mình hơn cô ta, nhưng về phần đóng góp cho cuộc đời mới, mình còn đi sau cô ấy. Nhưng, đi như vầy đã đúng hướng chưa ? Mai Sương ít tuổi mà cuộc đời đã dạy cô một câu chí lý : con đường đi quan trọng lắm, nó làm cho mình thảnh thơi hay đau khổ suốt cả một đời…
Trời đã tối hẳn. Trăng non lơ lửng phía rừng xa. Gió nổi lên ào ào và mây đen đùn lên phía biển. Như Ngọc thấy lạnh, Mai Sương nói :
– Mình vô nhà đi. Sắp mưa rồi. Ở đây mưa gió đột ngột lắm. Gần biển mà :
Hai chị em mang ghế vào xếp bên bàn. Mai Sương nói :
– Mình giăng mùng, rồi vô mùng nằm nói chuyện, đỡ muỗi, đỡ tốn dầu.
Như Ngọc mới để ý lúc nãy, ngồi ngoài sân, nghe Mai Sương kể chuyện, gió thổi ào ào vậy mà cô cứ phải đập muỗi liền tay. Nhớ đến câu nói của bác Chín Cường ở ấp Miễu Ba ngoài Cần Giờ : Muỗi là bạn thân của người ở rừng Sác. Cô bật cười, kể lại cho Mai Sương nghe và nói đùa :
– Trước khi chị đến đây, em đã có biết bao nhiêu là bạn thân rồi, muỗi nè, ba khía nè…
Mai Sương phì cười, thổi tắt ngọn đèn, giở mùng chun vô :
– Còn nữa. Nhiều bạn khác nữa. Rồi chị sẽ biết. Ôi, chị ơi, khi cất xong cái nhà này, mấy anh bắt em ngủ một mình, cho nó tiện… Mấy anh nói vậy. Nhà các anh ở sát bên đây, ho một tiếng cũng nghe, ới một tiếng là chạy qua liền. Vậy mà em sợ quá. Đêm nào cũng đóng chặt cửa, nằm im thin thít. Nghe gió chạy bên ngoài cứ ngỡ ai mò tới. Ma thì em không sợ. Em chỉ sợ mấy cái ông học viên ẩu bạt mạng. Rồi sợ có anh nào đó… Sợ rắn, rít. Sợ đủ thứ. Mấy đêm đầu, em phải để sẵn con dao làm bếp tại đầu nằm, để sẵn bình mực… Bình mực để tạt vào anh nào bậy bạ, đánh dấu ! (Hí ! hí !) Con dao để “chiến đấu” với… với cái gì đó lúc cùng đường phải “chiến đấu”… Đến một tuần sau mới hết sợ. Lúc đó thì lại thấy buồn. Nằm một mình buồn quá… Đầu hôm, em hay sang bên các anh chơi, mãi tới lúc buồn ngủ mới về, ngả lưng là ngủ liền. Có bữa, mấy anh đuổi em đi để nói chuyện tếu với nhau. Em về, không dám thắp đèn để đọc sách, sợ tốn dầu. Vậy là em hát ầm lên, cho mấy anh ấy tức ! Em ước mình có tiền, sắm cái ra-đi-ô thì hay biết mấy. Nhưng tiền đâu có… Cói chết hết rồi… Bây giờ, có chị, em mừng quá, mừng hết sức !
Như Ngọc cười :
– Hơn cái ra-đi-ô chớ ! Ra-đi-ô này cũng biết hát đây. Muốn nghe không ?
Mai Sương không hiểu sao, vội tốc mùng sang nằm với Như Ngọc, ôm chặt Như Ngọc :
– Em thích chị quá ! Rồi chị dạy em học cho hết lớp 12 nghe ?
Như Ngọc vuốt mái tóc Mai Sương:
– Học hết lớp 12 rồi em sẽ làm gì ?
Mai Sương như ngớ ra :
– Làm gì thì… em cũng chưa tính. Nhưng em muốn học quá…
Như Ngọc lựa lời hỏi :
– Em có tính ở đây lâu dài không ?
Mai Sương nằm im, không đáp. Một lúc, cô mới thầm thì :
– Em nói riêng với chị thôi, chị đừng đánh giá em, nghe. Em tính… học xong lớp 12, thi xong bổ túc văn hóa, rồi em xin vào một cơ quan nào đó ở… thành phố. Bởi vì bây giờ xin về ngay thì mình thua rồi, mắc cỡ với ba má, xấu hổ với bạn bè. Ra đi hăng hái thế, khóc lóc, hờn dỗi nữa. Bây giờ xin về… Mắc cỡ quá !
– Ở đây không chịu nổi à ?
Mãi một lúc, Mai Sương mới đáp :
– Không phải không chịu nổi. Khổ hơn nữa, có lẽ em cũng chịu được. Nhưng… con đường mình theo… Em thấy lý tưởng thì hay mà thực tế thì… Làm sao chớ xây dựng chủ nghĩa xã hội như vầy… Chẳng thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy nông trường cứ ngày một… Em thắc mắc quá mà chẳng biết nói với ai… Khổ ghê… Chị có thương em không ?
Như Ngọc ôm chặt Mai Sương, không đáp. Mai Sương ngập ngừng thổ lộ :
– Em thấy như mình bị… bị lừa gạt chị à ?
Như Ngọc lặng đi. Cô lại nghĩ đến phận mình. Cô có bị lừa gạt không ? Ba Trí lừa gạt cô ư ? Không phải. Chính anh ấy cũng đang vướng mắc. Vậy thì ai lừa ? Ngày xưa, cha mình bỏ nhà đi chiến đấu ở rừng Sác, chắc phải tin vào cái gì đó lớn lao lắm. Bác Chín Cường kể chuyện cũ, cũng tràn niềm tin. Vậy con đường của cha đi, rõ là gian khổ nhưng thật đẹp. Còn bây giờ ? Ngay như bác Chín Cường vẫn nói : coi chừng trật đường rầy. Và bác tin cô là “đồng minh” của bác… Không, không có ai gạt cô ra đây. Vì ở đây hay ở thành phố, cô đều phải tự trả lời câu hỏi của bác Chín Cường. Có điều, ở đây, một khó khăn nhỏ cũng được phóng to ra, thành một câu hỏi thúc bách từng ngày… Cô và cả Mai Sương đang khủng hoảng niềm tin. Hay đúng hơn, cô đang tìm lại cái niềm tin của cha cô, không biết thất lạc ở nơi nào giữa rừng ngập mặn…
Những giọt mưa đầu, thưa thớt rơi lộp độp trên mái. Rồi một ánh chớp lóe lên xanh lè ngoài khe cửa sổ. Tiếp liền theo, mưa đổ xuống ào ào. Gió quất dữ dội. Những hạt mưa to đập vào vách lá rào rạt, hắt hơi nước mát lạnh đến tận màn. Trong cơn mưa rơi mịt mù trời đất, Như Ngọc cảm thấy mình nhỏ nhoi hết sức giữa vũ trụ bao la. Ở đây, có lẽ mình còn yếu ớt hơn một con ba khía. Đây là môi trường sống của ba khía. Còn con người giữa rừng lầy ngập mặn, chống chọi làm sao ? Trong tiếng mưa, Như Ngọc nghe như có tiếng ì ầm làm cho đất bùn dưới chân giường như cũng run rẩy trở trăn trước bao câu hỏi đêm nào cũng thúc bách, đợi lời giải đáp… Mai Sương nói :
– Chị có nghe tiếng gì không ? Tiếng sóng ngoài biển đông đấy. Biển gần lắm. Và những đêm động trời như vầy, em nằm nghe tiếng sóng dậy, cảm thấy mình đang nằm ở một nơi hết đường đi, cùng trời cuối đất, chỉ có sóng biển đang gào thét với gió mưa… Và khi nghĩ tới tương lai của nông trường với bao nhiêu héc ta cói dần dần chết rụi, em không sao giữ cho nước mắt khỏi chảy… Anh Lê Quát nói : Tại mình sợ gian khổ, mới thất bại đã ngã lòng… Anh Ba Trí nói : Tại mình không biết làm ăn… Anh Lê Quát hô hào : Chịu đựng gian khổ, bám trụ sản xuất… Anh Ba Trí bảo : cải tiến quản lý, thay đổi kiểu làm… Trong khi đó thì cuộc sống quá khổ, trong thành phố khổ một thì ở đây khổ mười…
Như Ngọc hỏi :
– Em thấy anh Lê Quát có lý hơn hay anh Ba trí có lý hơn ?
Mai Sương làm thinh một hồi lâu mới ngập ngừng nói :
– Em chỉ quen anh Ba trí mấy lần khi đi họp. Ảnh nói chuyện nghe hấp dẫn lắm, cứ như đốt ngọn lửa cháy lên trong lòng mình. Nhưng lần lần, em thấy ảnh hơi… bốc. Có lúc em giận ảnh vì so với thực tế, những lời tốt đẹp của ảnh trước đây như là lời nói gạt mình… Còn anh Lê Quát, ảnh nghiêm và chặt chẽ. Không có ảnh, đám học viên kia làm loạn rồi, hay ít ra thì cũng xô bồ, lộn xộn, không giữ được nề nếp trường học như bây giờ đâu. Chị mà nghe ảnh kể chuyện chiến đấu hồi ảnh làm đặc công nước ở rừng Sác này thì chị mê luôn. Có nhiều đêm, ảnh ngồi bên hàng đước mới trồng ngoài kia, kể chuyện cho em nghe, em mê đến nỗi quên cả giờ giấc… Em kính phục, em… thương ảnh vô cùng… Nhưng ảnh nghiêm khắc và chi li quá nên em thấy sợ…
Mai Sương chợt ngừng nói… Như Ngọc cũng lặng im. Hai chị em nằm bên nhau trong bóng tối đầy hơi nước lạnh và mùi cá khô, dầu lửa, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng mình. Mai Sương nhớ lại những đêm sáng trăng, giữa rừng Sác, xa xa các đầm nước cứ lấp lánh và trước mặt, dòng sông no đầy nước cuồn cuộn chảy mang theo ánh trăng. Cô ngồi bên anh Quát, nghe anh kể lại cuộc đời mình. Cuộc đời ấy gây một ấn tượng mạnh mẽ đối với cô gái thị thành vừa mới lớn, lòng còn đầy lý tưởng và ước mơ… Cô không thể kể lại ngay cho Như Ngọc nghe về cuộc đời của một con người mà mình mến phục, nhất là trong cái đêm mưa gió, gợi nhớ thế này…
Giữa câu chuyện, chợt Như Ngọc quay sang hỏi Mai Sương :
– Nè, có lần nào anh Quát nói với em là ảnh có thấy một khoảnh đất đỏ nào đó giữa rừng Sác hay không ?
Mai Sương cũng quay sang, giọng hơi ngạc nhiên :
– Có, ảnh có nói. Chị cũng biết chuyện đó nữa à ? Mà có chuyện gì vậy ?
Như Ngọc cảm thấy hồi hộp. Và trước sự ngạc nhiên đến mức như giật mình của Mai Sương, không hiểu sao Như Ngọc phải vội nói tránh đi :
– Không, không có chuyện gì đâu… Hồi đi thực tập ngoài này, chị… có nghe người ta nói qua vậy thôi…
Mai Sương thở ra, nằm thẳng người lại, tay vắt lên trán. Như Ngọc cũng suy nghĩ mông lung. Chẳng hiểu anh Lê Quát có biết cha mình không. Hai người cùng chiến đấu ở rừng Sác mà. Cùng cánh quân sự mà…
Trí tưởng tượng của con gái làm cho đầu óc Như Ngọc cứ căng lên… Cô cứ nghĩ, cứ nghĩ…
Hai cô gái nằm chung một giường, nhưng không nói chuyện nữa. Mỗi người lại theo đuổi ý nghĩ của mình…
Ngoài trời, mưa đã ngớt, chỉ còn nghe tiếng đập phớt nhẹ trên mái của những hạt mưa nhỏ và thưa. Gió đã dịu lại, không ào ạt từng cơn, nhưng cái lạnh thì tăng lên, tê tái. Lúc đó câu hỏi ì ầm của biển lại nổi lên, rõ hơn. Và mặt bùn, mặt đất nền nhà như rung động trăn trở, thổn thức thâu đêm… Như Ngọc chìm dần vào giấc ngủ đầu tiên giữa đêm rừng như thế. Cạnh cô, Mai Sương cũng đã thở đều đều. Hơi ấm của hai cô gái trẻ tỏa ra, sưởi cho nhau, khiến các cô cảm thấy yên tâm cùng đi sâu vào giấc ngủ say nồng…
Như Ngọc mơ thấy cảnh một nông trường trù phú với cái đầm nuôi tôm xuất khẩu rộng lớn do cô thiết kế và xây dựng nên… Cảnh đẹp như trong phim màu… Nhưng rồi giặc tới ném bom, rải chất độc, rụi hết đầm tôm của cô… Anh Lê Quát cầm súng lên, bắn vào tàu giặc… Nổ tung… Bỗng cô giật mình : hình như vừa có tiếng súng nổ to quá. Cô chợt tỉnh… Đúng rồi, lại mấy tiếng súng nữa ! Như Ngọc tỉnh hẳn, trở về với thực tại. Cái gì thế này ? Tim cô đập thình thịch, cô lo quá. Rồi những tiếng người la to lên, phía bên lán học viên. Chuyện gì vậy hả ? Phía nhà bên cạnh, các anh đã trở dậy, chạy ra. Như Ngọc nghe tiếng anh Lê Quát vừa chạy vừa quát hỏi :
– Cái gì mà đang đêm cứ ầm ầm như vậy ? Loạn rồi à ? Chẳng còn biết kỷ luật là gì hết ! Đứa nào bắn súng ! Có ngừng ngay đi không ?
Như Ngọc bật dậy, chạy ra hiên nhà. Cô thấy ánh đèn pin của chú Hai Hưng quét một vệt sáng phía sau lưng anh Lê Quát đang mặc quần cụt, áo thun ba lỗ. Đất bùn trên đường qua một trận mưa, ướt lép nhép, dính bê bết. Lê Quát bỏ dép chạy chân không. Mai Sương lúc ấy cũng đã vùng dậy ra hiên, đứng sau lưng, vòng tay ôm chặt ngang bụng Như Ngọc. Hơi thở cô, phía sau nóng rực.
Như Ngọc nghe loáng thoáng tiếng anh bảo vệ từ bên kia vọng lại :
– Báo cáo anh, có học viên trốn trại !
Tiếng Lê Quát :
– Thật không ! Ra lệnh tập họp ! Điểm quân !
Tiếng chân người rậm rịch, ồn ào. Tiếng gọi nhau léo nhéo. Tiếng gọi tên vang dài… Một lúc, tiếng Lê Quát hô lên :
– Tất cả học viên trở vào chỗ nằm. Tuyệt đối im lặng, trật tự. Ai vi phạm, sẽ kỷ luật rất nặng… Tổ bảo vệ : một người giữ chặt cổng, một người tuần tra dọc hào. Số còn lại, đốt đuốc lên, theo tôi !
Mai Sương nói :
– Rồi ! Có người trốn trại thiệt rồi !
Và cô quăng dép, chạy tốc ra theo các anh.
Như Ngọc còn lại một mình. Tâm trạng cô bối rối, như bị hụt hẫng một cái gì. Cô muốn chạy theo Mai Sương, nhưng cô cứ đứng lại. Cô muốn trở vào giường nằm vì cơn gió thổi lạnh hai vai. Nhưng, cô vẫn cứ đứng ngoài hiên, tay ôm lấy chiếc cột, mắt nhìn sang bên kia.
Trong đêm, những ngọn đuốc lá dừa nước do Lê Quát cho làm sẵn đã sáng lên, bập bùng soi mái lán, soi vào hào, soi vọng gác. Rồi ánh đuốc chuyển động nhanh ra phía bờ sông, vật vờ trong cơn gió, vật vờ theo những bước chân chạy vội trên con đường mới đắp, trơn trợt và dính bết vì mưa… Một cảm giác lộn xộn dâng tràn lòng cô. Cái nơi người ta bỏ chạy, cô lại muốn xây dựng nên… Hy vọng và chán nản… Tương lai và hiện tại… Thương cho người và cũng thương cho mình…
Như Ngọc cứ đứng mãi như vậy ở ngoài hiên, chờ đợi… Lâu quá, lâu ghê… Khéo đến cả giờ đồng hồ… Cuối cùng thì Mai Sương cũng trở về, chân mang đầy bùn như đang mang dép, hơi thở hào hển :
– Năm người trốn trại ! Bốn nam một nữ ! Vụ này to quá !
– Có bắt lại được ai không ?
– Tới bây giờ thì chưa !
– Có biết tên những người trốn không ?
– Biết chớ ! Biết ngay khi anh Lê Quát cho điểm quân. Có Sơn Đầu Bò. Cô Ly Ly…
– Vậy à ? Cô mới tới sáng nay đó ?
– Ừ ! Nghe như là cô này cầm đầu !
– Ghê quá ! Còn ba người kia cũng không bắt được à ?
– Không ! Khó lòng mà bắt…
– Sao vậy ?
– Họ ăn cắp luôn ghe máy, chạy mất rồi !
– Trời đất ! Chạy trốn bằng ghe máy…
Mai Sương bước tới, nói nhỏ vào tai Như Ngọc :
– Còn chuyện này mới gay hơn : Số gạo tiếp tế từ chiều qua vẫn chưa mang hết lên được. Mất luôn rồi mới chết !
Như Ngọc kêu lớn :
– Trời đất !
Mai Sương vội bịt miệng cô :
– Chết ! Chị đừng la ! Anh Lê Quát bảo : cái đó phải tuyệt mật. Lộ ra, học viên họ làm loạn !
– Trời ơi !
Như Ngọc lo lắng vô cùng ! Mấy trăm con người, hết gạo, ở giữa rừng, hết phương tiện đi lại, cả bí thư Quận ủy, giám đốc nông trường… đều bị kẹt ở đây. Trời ơi !
Như Ngọc bỗng kéo tay Mai Sương :
– Đi ! Chị em mình đi qua đây, hỏi coi các anh tính sao bây giờ ?
Mai Sương ngập ngừng một chút. Nhưng trước thái độ quả quyết của Như Ngọc, cô như bị lôi cuốn, bước theo…
7. ĐUỔI BẮT
Khi hai chị em Như Ngọc sang đến nơi thì thấy Hai Hưng, Ba Trí và Lê Quát đang ngồi quanh bàn, ở giữa, thắp cái đèn trứng vịt. Trên giường bên cạnh, có anh tổ trưởng bảo vệ và anh cán bộ lo việc học tập chính trị và lao động của trường. Hai Hưng ngẩng đầu lên nhìn thấy hai cô gái, liền bảo :
– Tưởng các cô ngủ nên không gọi. Thôi, ngồi đây nghe luôn… Đồng chí Quát nói tiếp đi.
Lê Quát giọng trầm trầm :
– … Sơn Đầu Bò lâu nay học tập khá, lao động tốt. Cậu ta như là “trưởng tràng” ở đây. Về lý lịch thì cũng không có vấn đề chính trị gì. Vụ này chắc chắn là do Ly Ly gây ra. Cô này ghê gớm lắm. Có lẽ các anh bên công an nghiên cứu lý lịch cô ta chưa kỹ…
Ba Trí cắt ngang :
– Thì anh cũng có nghiên cứu. Và anh cũng nhận. Tôi nhất trí với ý kiến của anh…
Lê Quát cau mày :
– Nhưng có khi hồ sơ chưa đầy đủ. Người ta chưa hiểu hết cô này. Theo tôi, nó không phải đứa thường. Có bản lĩnh lắm. Mới vào, đã trị ngay được cô Hai Ngà, tính làm “xếp sòng” đám nữ. Rồi lôi kéo ngay được Sơn Đầu Bò, tổ chức cướp thuyền máy. Và cả gạo nữa… Đưa nó về đây có lẽ là sai lầm. Đáng ra, nên để nó cho bên hình sự giải quyết.
Ba Trí nói :
– Đúng là Ly Ly có điều đặc biệt hơn chị em khác. Nhưng theo tôi, nếu kết luận vội vàng, ta có thể mắc sai lầm trong đối xử với con người. Có thể cô muốn làm “xếp sòng”, nhưng cũng có thể đó là phản ứng tự vệ. Có thể cô có bản lĩnh cao cường nên trong một buổi, đã tổ chức được một cuộc trốn trại to như vậy nhưng cũng có thể đó là chuyện bản năng, tính bốc đồng mà gặp may của thanh niên… Cũng có sơ hở của ta mà cô đã nhạy bén nhìn thấy…
Lê Quát hơi bực :
– Tôi thấy lần nào bàn về việc của trường học thì anh Ba cũng bênh học viên và phê phán chúng tôi. Dường như anh cho rằng anh hiểu được người tại chỗ, còn tôi thì không… Sơ hở như thế nào ? Và tại sao sơ hở ? Một mình tôi ở miết dưới này, vừa lo nông trường, vừa lo trường học. Như vậy, có sơ hở không ?
Hai Hưng khoát tay :
– Thôi thôi… Những chuyện đó để sau ra rút kinh nghiệm. Bây giờ, gấp rút bàn cách đối phó với tình hình đã…
Như Ngọc nãy giờ ngồi lặng im, lắng nghe. Cô thích cách suy nghĩ và làm việc có bài bản, rõ ràng chặt chẽ, dứt khoát của Lê Quát. Nhưng cô cũng thích cách suy nghĩ rộng rãi, bao dung có chút gì hồn nhiên bay bổng của Ba Trí. Cô muốn mình có hết những đức tính ấy của cả hai anh. Phải chi hai anh cộng hết các cái tốt lại, rồi chia ra chớ đừng có chọi nhau thì chắc nông trường mình sẽ khá hơn bây giờ…
Mọi người ngồi lặng, suy nghĩ, không ai lên tiếng trước câu gợi ý của Hai Hưng. Thấy vậy, Hai Hưng nói :
– Bấy giờ, tôi thử phác ra như vầy, rồi các đồng chí góp thêm nghe : Theo tôi, cái đám này không chạy về thành phố, vì lo sẽ bị bắt lại. Hướng của họ là chạy ra Cần Giờ… Vì vậy, sáng mai, đồng chí Quát tìm mọi cách ra ngay Cần Giờ liên hệ với công an huyện, nhờ các đồng chí đi kiếm, chận bắt giữ ghe máy và những người trốn trại lại. Nếu bắt được thì đưa về đây ta tính sau. Đừng tranh cãi, đừng làm to chuyện, chẳng có lợi gì cho quận ta đâu. Còn đồng chí Ba Trí cũng tìm mọi cách trở lại thành phố ngay, đến Quận ủy, đến Ủy ban báo cáo tình hình và xin tăng viện gấp, gạo, ghe máy, nếu cần thì mua ngay một chiếc cho nông trường, tôi sẽ ký duyệt. Nhớ làm gọn, làm gấp kín đáo, không được gây ồn ào ở trên quận. Đồng chí Mai Sương, cùng một đồng chí trong tổ bảo vệ cũng tìm mọi cách sang ngay nông trường Rạng Đông bên cạnh, vay lương thực, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Đồng chí Như Ngọc, tôi và những đồng chí còn lại ở đây, tổ chức sản xuất ngay, chủ yếu là bắt cá tôm. Các kế hoạch lao động, xây dựng cơ bản tạm ngừng trong khi chờ đợi lương thực tăng viện trở lại bình thường… Tổ bảo vệ tăng cường canh gác, thấy có gì khác phải báo cáo ngay. Vậy đó, các đồng chí có ý kiến gì thì cứ mạnh dạn phát biểu.
Yên lặng một lúc, bỗng Mai Sương rụt rè nói :
– Nhưng mà… cháu sang nông trường Rạng Đông bằng cách nào ? Từ đây qua đó ngót mười cây số, lại qua mấy cái tắt, mà cháu không thuộc đường… ?
Hai Hưng ngồi lặng im, chưa biết trả lời ra sao. Như Ngọc nghĩ : Chủ trương và kế hoạch của chú Hai đúng đắn lắm. Trong cái mớ bòng bong này, chú nhìn rõ ngay vấn đề và bài binh bố trận phải nói là nhanh nhạy, kể cả phương châm làm gọn, làm kín, tránh ồn ào cũng rõ lắm, xứng đáng là người lãnh đạo. Nhưng làm sao thực hiện đây ? Anh Ba trí làm sao về Sài Gòn, anh Lê Quát làm sao ra Cần Giờ ? Chẳng lẽ băng rừng lầy hay chẳng lẽ lội sông ? Chủ trương thì hay nhưng Mai Sương đang xanh mắt vì sợ lội sông và Như Ngọc đang phập phồng lo đói. Như Ngọc nhớ lại yêu cầu của anh Lê Quát sáng hôm qua : xin cho nông trường một ghe máy. Chú Hai bảo cần phải suy nghĩ. Còn lu nước, chú cắt giảm một nửa, chẳng biết căn cứ vào đâu, có lẽ căn cứ vào số tiền quận sẽ cấp ra cho nông trường, chớ nhu cầu thực tế ở đây thì chú cũng không quan tâm lắm. Bây giờ, qua chưa hết một đêm, và chẳng cần phải suy nghĩ lâu, chú đã đồng ý ký duyệt cho nông trường mua ghe máy. Anh Lê Quát nói có lý ghê : Ở đây, một khó khăn nhỏ mà không giải quyết ngay có thể dẫn đến đổ vỡ lớn… Ở thành phố cũng gặp khó khăn tương tự nhưng nó diễn ra từ từ và người ta cũng có cách xoay xở chớ khó khăn không lộ ra gay gắt như ở đây. Bây giờ, thì muộn rồi… Nhưng vẫn còn hơn là không, dù sao chú cũng đã thay đổi cách nhìn đối với nông trường này.
Ba Trí lưỡng lự một hồi, rồi cũng nói :
– Tôi thấy trước mắt, kế hoạch của anh Hai đối phó với tình hình như vậy là đúng và khá đầy đủ. Phần tôi, ngày mai sẽ cố gắng chấp hành ngay. Nhưng tôi muốn ta thử tính lại coi : dù cho nông trường có riêng một ghe máy, hay mười lu chứa nước, hay một chục cái súng nữa mà… cứ làm theo kiểu trước đây, chờ xin, chờ cấp… có đến đâu cấp đến đó thì hết khó khăn này tới khó khăn khác, nông trường rồi sẽ lụn bại dần thôi. Theo tôi, sự việc hôm nay càng thúc đẩy ta phải lựa chọn : hoặc mạnh dạn đầu tư, chuyển sang hạch toán lời lỗ, và gắn chặt việc xây dựng nông trường với lợi ích của học viên. Nông trường không phải là trại giam để cưỡng bức họ lao động trong vài ba năm… Hoặc là… rút quân về, để vốn đầu tư vào chỗ khác tốt hơn…
Hai Hưng ngắt lời Ba trí :
– Thôi, không bàn chuyện đó ở đây. Tình hình đang như nước sôi lửa cháy, bàn chuyện đó càng làm rối óc người ta. Bàn việc thực hiện đi, nếu các đồng chí thấy kế hoạch vừa nêu là đúng thì xốc vào, bàn cách thực hiện thôi.
Lê Quát nói :
– Tôi thấy kế hoạch của anh Hai là đúng. Hướng truy bắt cũng đúng. Tình hình này phải làm vậy thôi. Phần tôi, các đồng chí khỏi lo. Tôi có thể lội sông cả ngày đêm. Ngày xưa tôi vừa bơi vừa mang trái nổ hàng tạ trong đêm, giữa vòng vây quân thù. Bây giờ, tôi lội sông, ra đón tàu xuôi Cần Giờ cũng chẳng có gì khó lắm đâu. Nếu cần, tôi sẽ gặp Huyện ủy vay tạm lương thực đưa về đây sớm. Còn… Mai Sương, có lẽ… nên để cô ấy ở nhà thì hơn. Cô chẳng có phương tiện nào đi lại, con gái…
Ba Trí gật đầu :
– Phải đó ! Nên để Mai Sương ở đây. Cô xem lại chỗ gạo hiện có, tính toán, chia ra sao cho có thể cầm cự được từ ba đến năm ngày. Hy vọng trong thời gian đó, tôi và anh Lê Quát sẽ có gạo tiếp viện…
Hai Hưng nói :
– Được thôi. Tôi gợi ý như vậy. Còn phân công cụ thể là do hai đồng chí.
Khi trời rạng sáng thì Ba Trí và Lê Quát đã tính xong mọi việc và phân công cho từng người ở lại. Ba Trí nhắc Lê Quát nhớ mang giấy giới thiệu ra huyện Duyên Hải. Ba Trí cũng đề nghị Hai Hưng sáng ra, nên tập họp học viên lại, nói cho anh chị em rõ tình hình và cách thức đối phó, cho họ yên tâm, động viên họ góp phần giải quyết khó khăn chứ đừng giấu họ. Hai Hưng gật đầu, chấp thuận…
Mai Sương nói :
– Để em nấu cơm cho hai anh ăn rồi hãy đi.
Lê Quát nhìn Mai Sương, cười :
– Cô liệu chừng. Khéo ở nhà phải ăn cháo đấy.
Khi mặt trời vừa mọc ở đằng đông, chiếu ánh hồng trên vùng rừng ngập mặn bị chất độc hóa học Mỹ tàn phá xác xơ, chỉ mới có những bụi mắm, bụi giá lơ thơ vừa mọc lại và những đầm lầy mà con nước lớn ban đêm rút xuống còn lưu những mặt nước sáng như những tấm gương khổng lồ, thì Như Ngọc, Mai Sương và Hai Hưng đưa Lê Quát ra bờ sông, Lê Quát gói tất cả hành trang vào trong bọc ni-lông, buộc thật kín khoác ngang lưng, chỉ mặc có mỗi chiếc quần xì líp bơi, chỉ khác với thời đánh Mỹ là chiếc quần màu xanh dương mua ở chợ Sài Gòn, chứ không phải chiếc quần trang phục đặc công nước ngày xưa. Anh đứng ở đầu doi mỉm cười dặn Ba Trí :
– Anh chờ ở đây. Tôi bơi một lúc, nếu gặp thuyền dân tôi sẽ thuê họ đến chở anh ra Tam Thới Thôn. Từ đó, anh ngồi đò máy về thành phố. Chậm nhất là chiều nay, anh sẽ có mặt ở Sài Gòn…
Mọi người bắt tay Lê Quát. Đây là buổi ra quân chiến đấu đầu tiên mà đồng đội của anh lại là những người… dân sự, trong đó có hai cô gái ! Mai Sương nắm chặt tay anh, nước mắt ngân ngấn :
– Anh… đi, cẩn thận…
Lê Quát nhìn vào mắt Mai Sương, cười :
– Cô đừng lo. Sông nước ở đây, anh thuộc lòng. Còn cá sấu thì anh quen mặt hết !
Như Ngọc cũng thấy lòng xúc động trước hình ảnh nhắc lại của người lính đặc công rừng Sác trong chiến tranh vừa qua, cách đây chưa quá dăm năm mà như đã thành huyền thoại.
Lần đầu tiên, Như Ngọc nhìn thấy Lê Quát trong trang phục đơn sơ của một “vận động viên bơi lội”, cô ngỡ ngàng và có cảm giác hơi sợ : ở chân bên phải của anh, từ đùi chạy xuống đến bắp chuối, gần mắt cá, có những vết sẹo dài ! Ba, bốn vết kia ! Cô không dám nhìn kỹ. Về sau, hỏi riêng Mai Sương, Như Ngọc mới biết : Đó là những vết răng cá sấu ! Anh ấy đã đánh nhau với cá sấu giữa lòng sông, và đã thoát chết. Như Ngọc thầm bảo mình : hôm nào rảnh rỗi phải nói anh kể chuyện chiến đấu ở rừng Sác. Biết đâu anh ấy chẳng đã từng gặp ba mình.
Gần những con người này, cô thấy lòng bình tĩnh trở lại. Đối với các anh, không có bước đường cùng.
8. ĐỢI CHỜ
Sự chờ đợi đã sang đến ngày thứ năm. Và tình hình ở nông trường, nhất là ở trường học, đã rất căng thẳng. Chú Hai Hưng bị “đi thực tế dài hạn bắt buộc” cũng không còn giữ vẻ ung dung. Hôm qua, chú ngồi cạnh bàn hút thuốc cả buổi, mắt nhìn ra phía doi sông, chỗ ghe máy thường cặp bến. Hôm nay, hết thuốc hút, chú nằm trên giường, gác tay lên trán nhìn trần nhà. Thỉnh thoảng Như Ngọc chạy qua, vẫn thấy chú nằm đó, Như Ngọc chẳng dám quấy rầy chú, lại quay trở về, giúp Mai Sương nấu nướng. Nhưng cũng chẳng có gì để nấu nướng. Gạo bắt đầu cạn. Từ chiều qua, mỗi người chỉ được hai chén cơm. Trưa nay, một chén. Và buổi chiều, có lẽ phải ăn cháo ! Hơn nữa, nước ngọt cũng cạn, vì trời không mưa từ cái đêm hôm ấy. Lu chứa thì ít. Cơm nấu nước sông, khi gần chín Mai Sương mới rưới qua chút nước ngọt, ăn hạt cơm cứ lờ lợ, khó nuốt trôi… Nếu nấu cháo, lại phát sinh vấn đề nước… Chẳng biết chú Hai Hưng suy nghĩ, tính toán những gì. Còn Như Ngọc, cô thấy lo lắng quá. Tối qua, Mai Sương nói :
– Hay là để cháu tìm cách qua nông trường Rạng Đông vay một ít lương thực. Vì nếu ngày mai, các anh vẫn chưa về thì… nguy…
Chú Hai đáp, giọng không có gì quả quyết :
– Tùy cháu thôi…
Nói vậy chớ Mai Sương đi bằng cách nào đây. Bây giờ, hai chị em Như Ngọc, mấy anh bảo vệ, và cả chú Hai Hưng nữa đều lâm vào cảnh bị… giam giữa vùng rừng ngập mặn hoang dại này. Bây giờ, mọi người đều trở thành “học viên”. Học viên của một trường học thực tế phũ phàng ! Học viên chánh hiệu, họ còn có thể chạy trốn và có khả năng chạy trốn. Còn Như Ngọc và chú Hai Hưng, chạy trốn đi đâu ? Như Ngọc nhớ đến Lê Quát, một con người rất thực tế : Khó khăn ở đây cũng giống như khó khăn ở thành phố, nhưng được nhân lên gấp nhiều lần… Như Ngọc hay xem các tiêu bản sinh vật bằng kính lúp. Bây giờ, vùng rừng ngập mặn đầy những vũng nước khổng lồ, như những chiếc kính lúp cực mạnh, phóng to lên nhiều lần những khó khăn chung.
Hôm qua, nhân lúc chú Hai Hưng ngồi rảnh không làm gì, Như Ngọc nói chuyện chơi, thử thăm dò ý chú về việc làm đầm nuôi tôm.
Chú trầm ngâm một lúc rồi nói :
– Chú cũng biết nuôi tôm có lợi lớn. Nhưng đến lượt chú khuyên cháu nên hết sức thực tế. Cháu cố gắng ở đây nghiên cứu kỹ đi. Rồi lên một phương án cho có cơ sở khoa học chắc chắn, đưa chú coi… Chú… chú sợ cái kiểu làm ăn ào ào lắm rồi. Chẳng có chuyên môn gì hết. Vừa qua, đưa nông trường ra cũng là… theo chỉ thị của cấp trên, và để được tiếng là quận… đi đầu mở nông trường ở Duyên Hải ! Chú nói với cháu một bí mật : hiện nay đang có ý kiến : đưa quân ra Duyên Hải làm nông trường là sai lầm. Người ta muốn bỏ nông trường rút quân về. Ý kiến này ngày một mạnh và đã lên tới Thành ủy. Vì vậy cháu làm phải cẩn thận. Nghiên cứu không kỹ, thực hiện không quyết tâm, thất bại nữa thì…
Như Ngọc giật mình. Cô không ngờ vấn đề có phần nghiêm trọng như vậy. Cô thăm dò :
– Nhưng mà… ý kiến này anh Ba Trí đã nghĩ ra trước cháu…
– Đúng. Ba Trí đã nói nhiều lần. Nhưng… cách nói của Ba trí thì…
– Thì sao ạ ? Chẳng lẽ người ta không chú ý nội dung mà chỉ chú ý cách nói ?
Chú Hai cười lớn :
– Biết nói sao cho cháu hiểu đây… Cách nói thì… cũng không đúng… Cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề… Người ta nhìn nhận vấn đề theo kiểu… nông dân, kiểu sản xuất nhỏ… Rốt cuộc là vấn đề phát triển của lịch sử, vấn đề con người. Nói riêng giữa hai chú cháu mình thôi nhé : Đây là thời kỳ thắng thế của những con người quen sản xuất nhỏ… Thời kỳ thắng thế của… những tài năng nhỏ… Thời huy hoàng của sự khôn vặt… Còn những dự định sâu sắc, khoa học và lớn lao thì người ta chưa chấp nhận hoặc hoàn cảnh chưa cho phép làm… Trường hợp chú, cũng phải quay trong quỹ đạo đó, nếu không muốn ra rìa… Còn Ba Trí…
Chú bật cười. Như Ngọc nhìn chú Hai, rất ngạc nhiên : chú có trình độ tổng kết và khái quát mà Như Ngọc chưa có. Đúng sai thì chưa biết, nhưng… quả chú là người có trình độ để lãnh đạo… Hóa ra là những người lãnh đạo, họ cũng có… tâm sự. Mới gặp, họ nói rất công thức, rất chán. Nhưng nếu có dịp tâm sự, họ nói nhiều điều nghe rất đáng ngạc nhiên và lý thú…
Buổi chiều, khi kẻng báo giờ cơm, Như Ngọc gượng cười sang nói với chú Hai Hưng :
– Mời chú sang ăn cháo tôm…
Chú Hai lặng lẽ bước qua, không quên ghé mắt nhìn lu nước đang cạn đến đáy, đặt ở đầu hồi. Giữa bàn, một nồi cháo to đang bốc khói nghi ngút. Mai Sương cầm chiếc muỗng to khoắng cháo, rồi múc ra bát. Cháo khá loãng nhưng được cái những miếng tôm băm nhỏ cuộn lên, lấm tấm màu hồng. Không có tiêu mà cũng chẳng có hành. Miếng cháo húp vào có vị mặn lờ lợ, vì nước sông rừng Sác. Một bát nước mắm để bên cạnh nhưng không ai muốn nêm thêm. Như Ngọc chịu khó ăn một lúc hết ba chén cháo, mồ hôi toát ra lấm tấm dưới chân tóc mai. Mai Sương nhìn Như Ngọc :
– Cũng ngọt chớ hả chị ?
Như Ngọc nháy mắt, gật :
– Ừ, ngọt. Chỉ thiếu có hành, tiêu…
Cô liếc nhìn chú Hai. Chú cũng ăn ba chén. Sức chú, cháo này, ăn như vậy chắc chú cũng đói… Cô thương chú. Nếu giờ này ở thành phố thì chú…
Bỗng nhiên, bên phía trường học, có tiềng ồn ào, cãi vã… Tiếng mấy anh bảo vệ la hét om sòm… Chú Hai Hưng vội buông bát, lau miệng qua loa rồi lật đật bước sang. Như Ngọc cũng đặt chén xuống, chạy theo. Cô nghe tiếng Hai Ngà ré lên :
– Ăn uống như vầy thì chết đói thôi. Không nuôi nổi thì cho chúng tôi về, tự lo liệu. Sống như vầy, sống sao được ?
Anh cán bộ chính trị mắng át :
– Nè, cô Ngà, nói năng cho cẩn thận. Nếu không, cô sẽ bị kỷ luật nặng đó. Rồi còn ở đây dài dài chớ không về được đâu.
Hai Ngà đớp luôn :
– Anh sẽ bị kỷ luật trước ! Tôi sẽ viết đơn thưa các anh để học viên chết đói ! Rồi anh còn lãnh nhiều “cuốn lịch” hơn tôi. Còn gỡ lịch dài hơn tôi !
Hai Hưng bước vào nghiêm mặt nói :
– Cô Hai Ngà, nên giữ trật tự. Tình hình này không phải do chúng tôi muốn. Tất nhiên, chúng tôi nhận phần thiếu sót về mình. Nhưng tôi mong anh chị em bình tĩnh, chịu đựng. Tôi vẫn ở đây. Vẫn chịu đựng như anh chị em.
Hai Ngà cướp lời :
– Chịu đựng tới bao giờ ? Bác chịu đựng cùng anh chị em thì tốt thôi ! Nhưng chúng tôi chờ bác thay đổi tình hình, cho chúng tôi có gạo đủ ăn, và bác khỏi phải chịu đựng chớ có bác mà tình hình không có gì hơn thì… cũng như là không có…
Hai Hưng cau mày :
– Cô Ngà, cô không được nói hỗn. Qua khó khăn này, trường học sẽ đánh giá kết quả học tập của từng người, cô nên suy nghĩ kỹ trước khi nói. Còn bây giờ, tôi khuyên tất cả anh chị em bình tĩnh. Chúng tôi có thiếu sót, chúng tôi xin nhận lãnh trách nhiệm, nhận lãnh sự phê bình. Còn anh chị em nào vi phạm kỷ luật, làm mất trật tự, sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm ! Thôi ! Anh chị em ăn uống xong, dọn dẹp, rồi về chỗ của mình. Phải giữ đúng kỷ luật ! Còn cô Ngà, ăn xong, cô theo đồng chí cán bộ chánh trị sang nông trường bộ gặp tôi.
Nói rồi, chú Hai Hưng liền quay gót trở về và dặn anh tổ trưởng bảo vệ chốc nữa sang gặp chú. Chắc là chú sẽ chỉ đạo việc tổ chức canh gác đêm nay…
***
Đêm đã xuống. Trời lại chuyển mưa. Như Ngọc và Mai Sương chẳng dám thắp đèn, sợ tốn dầu, vào màn nằm sớm, tâm trạng lo lắng, căng thẳng. Bên ngoài gió đứng, nóng oi oi. Tiếng muỗi cứ vo ve đầy ngoài màn. Như Ngọc mong cho trời mưa. Mưa đi, ngày mai sẽ có nước uống, những ca nước ngọt quí giá biết bao. Nhưng Như Ngọc cũng sợ. Mưa rừng dữ dội hơn mưa ở thành phố. Và trong đêm mưa, chẳng biết việc gì sẽ xảy ra. Đêm trước, cũng là một đêm mưa…
Như Ngọc cứ phập phồng, nửa thức nửa ngủ. Có tiếng động gì cô cũng giật mình, dỏng tai nghe và có cảm tưởng như là nó phát đi từ phía mấy trăm học viên bên trường học…
Khoảng chín giờ đêm, Như Ngọc đang thiu thiu ngủ bỗng giật mình ngồi bật dậy. Cô nghe tiếng ào ào như tiếng chân cả đoàn người từ xa chạy tới. Rồi tiếng đập vào vách. Ngôi nhà như bị xô về một phía. Cô hoảng quá. Nhưng, tiếng lộp độp trên mái nhà làm cô sực nhớ : Mưa đổ xuống rồi. Gió mát thổi tỉnh cả người. Mưa sầm sập đến, trút nước ngọt ào ào. Ôi, nước ngọt. Cô chợt nảy ra một ý : gội đầu ! Mấy hôm nay, cô chẳng dám gội đầu nước mặn. Ý nghĩ vừa lóe thì da đầu như nổi cộm lên, ngứa ngáy lạ. Như Ngọc lần trong bóng tối, tìm bánh xà phòng thơm trong túi xách, vén màn, bước ra hiên. Gió tạt những giọt mưa li ti vào mặt mát lạnh. Như Ngọc đưa tay hứng dòng nước từ trên mái đổ xuống ào ào, đưa lên miệng nếm. Nước ngọt ghê. Cô đến bên lu nước, thò tay vào. Mới một lúc mã đã hơn nửa lu. Cô đưa hai tay vốc nước mưa lên mặt. Da mặt cảm thấy như sạch hẳn lên. Cô cúi luôn mái tóc bồng ra dưới giọt mưa. Nước từ mái nhà dội xuống thấm vào tận chân tóc. Cô cầm bánh xà phòng xát lên, cào thật cẩn thận… Bây giờ, có một trái chanh thì hạnh phúc biết bao ! Một cảm giác thích thú lan khắp da đầu…
Gội đầu xong, quần áo Như Ngọc đã thấm ướt. Cô nghĩ : nhân tiện, tắm mưa một trận cho thích. Cái cảm giác nhảy nhót tắm dưới những hạt mưa của thời trẻ con bỗng trỗi lên mạnh mẽ. Cô bước luôn ra, đứng dưới nhừng dòng nước mưa đang xối xuống ào ào. Nước ngọt thấm khắp da thịt cô gái, như cuốn đi những sình lầy, rít mặn của mồ hôi, của nước phèn mấy hôm nay. Cô lấy xà phòng xát lên quần áo, luồn vào trong, xoa lên vai, lên ngực… Cảm giác dễ chịu dâng khắp người… Mưa vẫn sầm sập. Khắp xung quanh đen kịt, dường như trên thế gian này chỉ còn lại có Như Ngọc và một màn mưa giăng kín đất trời… Cô nghĩ : còn phải giặt quần áo chứ. Chẳng lẽ mai lại mang ra sông ? Như Ngọc nhìn quanh, cả trời đất tối đen, che phủ bởi một màn mưa dày đặc. Cô cởi nhanh áo rồi quần, xát vội xà phòng, giũ mau dưới giọt mưa rơi mạnh như thác, trong khi dòng nước ngọt tràn trề đang ngấm mát lạnh vào cả da thịt để trần của cô.
Bỗng một ánh chớp lóe lên, xé bầu trời mưa chạy loằng ngoằng xuống tận đất. Trong khoảnh khắc, vụt sáng rỡ ràng thân hình cô gái trẻ đang đón hưởng những giọt nước ngọt ngào do trời đất ban cho giữa rừng ngập mặn. Tiếp theo, một tiếng sấm lan dài, rung động cả bầu trời và mặt đất. Như Ngọc giật mình, sợ quá, ôm vội quần áo chạy tuốt vào phòng… Sự hoảng sợ và di chuyển đột ngột làm cô nổi gai ốc, lạnh run, răng đánh vào nhau lập cập. Cô lau người thật nhanh, thay quần áo sạch rồi vào màn, trùm kín chăn, vẫn còn vừa sợ vừa run… Dần dần cô ngủ thiếp đi.
Trong cơn mơ, cô thấy mình trở lại thời thơ ấu, nhảy nhót trước những hạt mưa, lạnh run nhưng vẫn đắm người trong mưa mặc dù tiếng bà gọi mãi. Cô thấy rừng Sác ngập đầy nước, nông trường thành cái đầm nuôi tôm… Những con tôm bơi lội dưới gốc đước, từng đàn, từng đàn, nhiều vô kể… Chớp lại lóe lên, tiếng sấm nổ gần quá. Trong ánh chớp, cô bỗng thấy rõ : bên cạnh bản thiết kế đầm nuôi tôm, bên cạnh bản luận chứng kinh tế kỹ thuật, phải có một bản phương án về cuộc sống, về số phận, về tương lai của những người xây dựng nông trường này. Tương lai của Mai Sương, của Ly Ly… ai nghĩ dùm cho họ ? Không có phương ác ấy, chắc chắn sẽ không có đầm tôm, không có nông trường. Cái này, phải hỏi anh Ba Trí, ảnh rành hơn. À, mà phương án này phải do anh Ba Trí, anh Lê Quát làm ra. Đó là trách nhiệm của các anh.
Gần sáng. Như Ngọc lại tỉnh giấc, cảm thấy tay chân rã rời, mệt mỏi. Người cô nóng hầm hập, hơi thở cũng nóng hổi. Cô nghĩ : thôi, mình ốm rồi. Tắm mưa thật tai hại. Nhưng nước ngọt vô cùng, mình làm sao cưỡng lại được… Cô nuốt nước miếng. Đau cổ quá. Khéo sưng họng rồi, ở đây mà đau ốm thì gay go… Thuốc men thì ít, nhà thương thì không, đi lại trên sông nước rừng lầy mà không có phương tiện nào… Đâu phải như ở thành phố… Cơn sốt càng về sáng càng cao… Và cô mê thiếp đi.
Cô lại thấy mình sẽ ở đây mãi mãi, giữa rừng lầy ngập mặn với cha. Cô theo cha đánh giặc, đốt tàu giặc, lửa cháy tưng bừng, ngọn lửa lan nóng rực… Cô cầm súng lên, ngắm bắn. Ở đầu ruồi, hiện lên gương mặt… chú Hai Hưng, anh Ba Trí và cả anh Lê Quát nữa… Nhưng không không, chú Hai Hưng đang lội rừng, cùng cô nuôi tôm. Tôm bơi lội trong đầm nhiều vô kể. Cô cũng bơi xuống nước bắt tôm. Nhưng tôm cứ tuột hết qua những kẽ tay cô… Còn mẹ thì đứng trên bờ, không phải bờ đầm mà đứng ở bến Bạch Đằng, cứ gọi cô, nước mắt chảy dài trên má, trong khi Như Ngọc và các em bé mải đùa nghịch trên những bồn hoa. Nước mắt mẹ chảy tràn như nước sông, chảy vào má cô nóng hổi…
Khoảng trưa hôm sau, Như Ngọc chợt tỉnh trong tiếng gọi của Mai Sương :
– Chị Ngọc ! Dậy ăn cháo, rồi uống thuốc đi.
Như Ngọc gắng gượng mở mắt ra. Mai Sương đỡ cô dậy, đưa bát cháo đến. Cháo không có tôm. Đêm qua, mưa to và cấm trại nên không ai đi đổ lọp. Mai Sương nói :
– Ăn đi chị. Ăn mà giữ sức. Anh Ba Trí đã ra rồi…
Như Ngọc mừng quá :
– Ra hồi nào ?
– Mới cách đây vài giờ. Mọi chuyện đã tạm ổn. Đỡ căng rồi…
Như Ngọc thấy mình khỏe lên, cố gắng húp hết bát cháo. Mai Sương đưa ra mấy viên thuốc :
– Chị uống thuốc đi…
– Thuốc ở đâu có vậy ?
Mai Sương cười tủm tỉm :
– Anh Ba Trí mang ra. May thiệt là may, sáng nay, chị nóng mê, em sợ quá. Đây là viên Am-pi con nhộng. Đây thuốc cảm…
Như Ngọc ngửa cổ uống viên thuốc, nghĩ thầm : Nếu không có thuốc, không có ghe xuồng, mình ốm giữa rừng như vầy rồi chẳng biết ra sao…
9. TRỞ LẠI
Mọi việc ở nông trường đã trở lại nếp bình thường, nhưng Hai Hưng chưa về thành phố, vẫn nán chờ, đợi tin Lê Quát.
Trưa hôm sau, có tiếng máy tàu xa xa ngoài sông. Mai Sương đang ngồi làm sổ gạo, nước, mắm muối mà Ba Trí vừa đưa ra, vội ngẩng lên, bảo Như Ngọc :
– Khéo chừng anh Lê Quát về !
Như Ngọc mỉm cười : cô cũng đang mong anh. Mai Sương bỏ bút đứng lên :
– Mình ra coi đi, chị Ngọc.
Như Ngọc toan đứng lên, nhưng nghĩ sao, cô lại ngồi xuống bảo là vừa dứt sốt, còn mệt không dám dang nắng. Mai Sương chẳng nài nỉ thêm, tất tả đi xuống mé sông. Như Ngọc ngồi nhà, lắng tai nghe. Tiếng máy tàu to dần, rộ lên ở đầu doi, rồi ngừng bặt. Có lẽ…
Lát sau, Như Ngọc thấy một tốp người kéo lên nông trường bộ, Mai Sương chạy phía trước, báo tin :
– Anh Lê Quát đã về !
Như Ngọc thấy Lê Quát mặt hốc hác, râu lởm chởm, nhưng miệng thì nở cười. Đi sau anh là Sơn Đầu Bò, Ly Ly và mấy học viên trốn trại. Đủ hết, chẳng thiếu ai. Tất cả chấp hai tay trước bụng : họ đều bị trói. Như Ngọc ra đón Lê Quát trước hiên nhà. Lòng cô rất vui : Ly Ly cần phải hiểu là mình đã đụng đầu với ai chứ ! Bên kia, Hai Hưng, Ba Trí cũng bước sang…
Khi Lê Quát dắt tốp học viên trốn trại vào văn phòng, Như Ngọc thấy Mai Sương nhanh nhẹn đi đến bên bàn, rót chén nước, mỉm cười đưa cho Lê Quát. Lê Quát nhìn Mai Sương miệng cũng nở cười rồi gật đầu đón chén nước. Như Ngọc để ý nhìn từng động tác nhỏ của hai người : hình như họ nói gì với nhau qua ánh mắt… Trong khi đó, Hai Hưng bước đến, bắt tay Lê Quát thật chặt, vồn vã hỏi :
– Sao ? Có vất vả lắm không ? Nghỉ mệt đi rồi hẳng hay.
Lê Quát kéo ghế ngồi, chậm rãi uống hết chén nước. Anh quờ tay xuống gầm bàn tìm điếu thuốc lào. Nhưng anh không có thuốc. Như Ngọc thấy Mai Sương nhanh nhẹn chày vào buồng, một lúc, mang ra gói thuốc lào đưa cho Lê Quát. Lê Quát ngạc nhiên nhìn Mai Sương. Cô chỉ tủm tỉm cười. Như Ngọc biết : thuốc lào Ba Trí vừa đem ra hôm qua, giao cho Mai Sương giữ, anh Ba Trí cũng tỉ mỉ, nhớ mua cả thuốc lào cho anh Lê Quát.
Hai Hưng quay sang nói với Như Ngọc :
– Cháu cởi trói cho họ.
Như Ngọc mau mắn thi hành lệnh. Hai Hưng ngồi vào chiếc ghế đối diện với Lê Quát, nhìn thẳng người chạy trốn khắp một lượt, rồi nghiêm nét mặt, nói :
– Sao ? Các anh chị có thấy chạy trốn là vô ích và thêm nặng tội không ? Các anh chị đã mắc lỗi lầm. Chúng tôi đưa các anh chị ra đây để tạo điều kiện sửa lỗi, mong rằng qua học tập và lao động, các anh chị sẽ tiến bộ, trở về với cuộc sống bình thường. Vậy mà… Bây giờ, chúng tôi phải đối xử với các anh chị sao đây ?
Như Ngọc thấy những người chạy trốn đều đứng im, mắt nhìn xuống đất. Cả Sơn Đầu Bò cũng vậy, anh ta đã mất cái vẻ tự tin ở chính bản thân mình. Chỉ riêng có Ly Ly, cô lơ đãng nhìn Hai Hưng, Lê Quát, Ba Trí… như đang nghe chuyện của ai chứ không phải chuyện của mình. Như Ngọc nghĩ : cô này ghê lắm đây. Lúc ấy Lê Quát đặt mạnh chén nước vừa uống xong xuống bàn, lên tiếng trước :
– Tôi thấy chẳng phải suy nghĩ nhiều cho mệt. Đề nghị anh Hai giao trả họ về cho công an quận, truy tố về tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, bắt quả tang. Bằng chứng kia : cái tàu họ đã ăn cắp, với cả mấy tạ gạo của nông trường trên đó…
Hai Hưng hất hàm hỏi :
– Sao ? Cậu Sơn, cậu thấy có đúng vậy không ?
Sơn Đầu Bò cúi mặt xuống đất, ngón chân cái vẽ vẽ trên nền nhà. Hai Hưng gạn hỏi đến lần thứ hai, Sơn mới đáp nho nhỏ :
– Dạ… em… có lỗi. Tùy các anh…
Hai Hưng vẫn nghiêm mặt :
– Cậu biết lỗi, vậy là đúng. Còn Ly Ly ? Có phải cô cầm đầu vụ cướp tàu này không ?
Ly Ly ngước mắt lên, đáp :
– Dạ thưa không. Tôi không cướp tàu. Tôi chỉ muốn trốn trại…
Lê Quát không nhịn được, chen vào ngay :
– Cô lý sự hay nhỉ ? Y như thằng ăn trộm trâu. Dạ thưa không, tôi không trộm trâu, tôi chỉ lượm sợi dây. Tại sợi dây nó xỏ mũi con trâu ! Hứ ! Hay nhỉ !
Như Ngọc suýt bật cười : anh Lê Quát nói năng rõ ràng, dứt khoát, có cơ sở chắc chắn và cũng… có duyên. Nhưng, hình như… chú Hai Hưng cũng chưa tán thành lắm, chú ngồi gõ gõ ngón tay trên mặt bàn, tiếp tục hỏi Ly Ly :
– Cô tổ chức vu này ra sao ?
– Dạ… tôi không tổ chức. Và tôi cũng không cầm đầu…
– Vậy ai là người cầm đầu ?
Ly Ly quay nhìn Sơn và những người khác. Họ càng cúi thấp đầu xuống. Cô quay lại đáp :
– Dạ… không có ai cầm đầu hết…
Hai Hưng nhướng mắt :
– Cô không dám nói thiệt chớ gì ? Sợ phải không ?
Ly Ly phản ứng mạnh :
– Tôi không sợ. Hễ tôi làm, tôi chịu. Còn đàng này, tôi không làm…
– Cô không cầm đầu ? Vậy thì ai ?
Ly Ly ngập ngừng rồi nói :
– Thưa quí ông… dạ… thưa chú… Mấy người chúng tôi bàn nhau chạy trốn chớ không có ai cầm đầu…
Hai Hưng bật cười :
– Vậy cô bàn với ai, bàn cái gì ? Sơn, cô ấy bàn với cậu cái gì ?
Sơn lúng túng :
– Dạ… cô ấy bàn với cháu : Ở đây khổ lắm… Sẵn có cái tàu, mình lấy chạy trốn…
– Vậy là cậu nghe liền, làm theo liền à ?
Sơn đỏ mặt ấp úng… Như Ngọc hiểu : Những cô gái đẹp có sức mạnh sai khiến đàn ông dễ dàng. Nhưng xem chừng chú Hai Hưng chưa hiểu. Chú có vẻ ngạc nhiên, quay sang hỏi Ly Ly :
– Cô chỉ nói vậy thôi sao ?
– Dạ… chỉ có vậy… Vì hoàn cảnh và thì giờ không cho phép nói nhiều… Dạ, cháu… chỉ nói thêm : hễ trốn thoát thì cháu… với ảnh sẽ…
Hai Hưng bật lên “à” một tiếng ! Như Ngọc phải bụm miệng lại để khỏi bật cười. Cô thấy Ba Trí cũng tủm tỉm cười, sau một lúc lâu ngồi nghe rất chăm chú. Còn anh Lê Quát thì bực tức, đập tay xuống bàn, kêu lên : “Thiệt xạo hết chỗ nói !”. Hai Hưng vừa mỉm cười, vừa phác một cử chỉ ngăn cơn bực của Lê Quát, hỏi tiếp :
– Còn mấy cậu kia thì cô “bàn” cái gì ?
– Dạ… mấy anh kia… vác gạo lên bờ… Cháu nghĩ chạy trên biển muốn khỏi đói phải cần gạo, nên cháu kêu anh Sơn bàn với mấy ảnh để gạo lại thì… cho theo luôn…
Hai Hưng thở ra, lắc đầu : Thiệt là một kiểu “cầm đầu” và tổ chức… rất liều mạng như trong phim găng-tơ rẻ tiền… Thế nhưng hậu quả của nó thì khó mà lường được : Mấy trăm người suýt đói lả ! Cả một trại cải tạo suýt nổi loạn ! Cả một nông trường suýt tan vỡ ! Và bí thư quận ủy suýt… Nếu như Lê Quát không bắt cái đám này lại được.
Lê Quát nói :
– Anh Hai chớ vội tin lời cô Ly Ly. Cô ấy ghê gớm lắm. Cướp thuyền máy, cô còn một tính toán nguy hiểm nữa : Cô nghĩ rằng mất thuyền, chúng ta sẽ bó tay chịu chết, không thể nào đuổi theo bắt cô ấy được. Và có thuyền máy, cô ta sẽ dùng nó vượt biên. Sự việc rành rành ra đấy. Ta phải đánh giá cho đúng…
Hai Hưng khoát tay ngăn Lê Quát, rồi quay sang nói với anh bảo vệ :
– Đưa mấy cậu này về, cắm trại và kỷ luật. Còn cô này, để riêng ra ở phòng kỷ luật : Chờ Ban phụ trách Trại bàn, rồi sẽ quyết định.
Lúc ấy Mai Sương đã xuống bếp. Như Ngọc ngửi thấy mùi hành phi bốc lên thơm lừng, chắc cô em đang sửa soạn một món gì để chốc nữa bồi dưỡng cho anh Lê Quát. Như Ngọc thấy lòng nao nao khó nói…
***
Bảo vệ dẫn mấy người chạy trốn đi rồi, Như Ngọc tế nhị đi vào buồng con gái, để các anh hội ý Ban phụ trách… Song cô vẫn để tai nghe tiếng Hai Hưng hỏi Lê Quát :
– Sao ? Công việc ra sao ? Mệt dữ hả.
Tiếng điếu thuốc lào rít lên một hơi, lát sau tiếng Lê Quát chậm rãi nói :
– Hôm đó, tôi bơi một lúc thì gặp chiếc tàu nhỏ. Họ kéo lên, xét hỏi giấy tờ kỹ… Gần trưa, ra tới Cần Gờ. Tôi tốc thẳng tới Huyện đội. Huyện đội trưởng là người quen, cùng ở Đoàn 10 cũ. Chúng tôi sang Công an huyện, cũng người quen cũ nữa. Vậy là cả huyện đội, cả công an cho mượn tàu đi. Anh em họ có nghiệp vụ, nhìn bản đồ, phán đoán đường chạy của đám trốn. Nhưng bọn này cũng tinh quái lắm, có kinh nghiệm trốn công an. Chúng nó lủi vào một ngọn tắt, đổi gạo, mua dầu dự trữ định vượt biên. Liều chưa ! Phải nghĩ theo lối của chúng nó ! Chúng tôi đổi lại cách đánh : phục cửa sông. Quả nhiên, đến tối hôm qua, chúng nó mò ra rơi vào chỗ chúng tôi phục kích. Khi tôi nhảy lên thuyền, cả bọn đều tròn mắt ngơ ngác, không hiểu sao tôi lại xuất hiện ở đó Vậy là tóm gọn hết. Cũng nhờ chỗ quen biết, lại có mình đi bắt, nên làm biên bản xong, anh em cho tôi đưa tàu, đưa cả lũ về đây, giao cho quận mình xử lý.
Tiếng Hai Hưng nói :
– Cậu giỏi lắm ! Không có cậu, mất tàu, mất học viên, chuyện ầm cả ra, quận mình lôi thôi to… Bây giờ cậu tính sao ?
– Còn tính sao nữa. Giao sang hình sự. Làm án…
Im lặng một hồi. Như Ngọc nghe tiếng ngón tay chú Hai Hưng gõ gõ trên mặt bàn. Đó là thói quen mỗi khi chú đang nghĩ ngợi điều gì. Chợt cô nghe chú Hai hỏi :
– Còn cậu, tính sao ?
Chắc chú Hai hỏi anh Ba Trí. Như Ngọc cũng rất muốn biết ý kiến của anh.
Có lẽ Ba Trí đang ngập ngừng, nên mãi một lúc sau, Như Ngọc mới nghe anh đáp :
– Việc này là công lao của anh Lê Quát. Xin nhường quyền quyết định cho anh Quát.
– Nhưng tôi muốn biết ý kiến riêng của cậu ?
Tiếng Ba Trí lựa lời, cân nhắc :
– Tôi thấy giao sang hình sự thì… nông trường chúng tôi nhẹ gánh. Mà cũng có cơ sở để giao. Nhưng xét về thực chất thì đúng là họ muốn chạy trốn… Đưa sang hình sự thì bước đường cải tạo của họ sẽ khó khăn thêm, cuộc đời họ sẽ…
Lê Quát nói, giọng hơi cao :
– Tôi thấy anh Ba thiên về tình cảm nhiều quá. Tuy đây là trường học, nhưng… nếu tôi cũng thiên về tình cảm thì các anh nghĩ coi : tình hình sẽ ra sao ?
Lại im lặng nữa. Như Ngọc cũng thấy phân vân, khó nghĩ. Anh Lê Quát và anh Ba Trí, anh nào nói nghe cũng có lý. Nhưng giữ Ly Ly lại đây, nông trường sẽ còn bị cô ta cho vài vố nữa. Cô vừa giận lại vừa thương Ly Ly… Tính sao đây ? Một lúc mới nghe Ba Trí chậm rãi nói :
– Không phải chuyện tình cảm đâu. Tôi nghĩ : con người sống từ chỗ bản năng đến chỗ lý trí. Thanh niên Sài Gòn, chế độ tư bản hướng họ sống theo bản năng. Vì xã hội tư bản là một xã hội sống theo bản năng, dù cho có tiến bộ kỹ thuật đến đâu, dù cho có tiện nghi đến đâu. Cho nên nó sẽ bị con người chối bỏ. Nhưng bản năng quá thì thành con vật, mà lý trí quá thì cũng không còn tình người. Con người không thể bỏ cách sống theo bản năng để sống thuần lý trí mà hướng tới sự hài hòa giữa hai cái đó… Ranh giới ở chỗ nào, điều ấy thiệt khó. Giải quyết đúng thì ta mới có được những con người chân chính… Theo tôi để họ lại đây giáo dục thì có nặng cho ta, nhưng có lợi cho họ, đúng với thực chất lỗi lầm của họ. Tuy về mức độ hậu quả họ gây ra thì, nhìn bề ngoài, giải quyết như vậy là quá “tình cảm”…
Giọng nói của Lê Quát đã lộ vẻ sốt ruột :
– Tôi không lý luận dài dòng, cũng không suy nghĩ sâu xa như anh Ba. Theo tôi, để họ ở đây, sẽ còn nhiều chuyện rắc rối… Còn mệt dài dài…
– Nhưng đưa họ sang hình sự, kêu án… chắc gì đã hết rắc rối, hết mệt ? Có lẽ ta hết mệt, nhưng xã hội có khi mệt hơn…
Đến đây, Như Ngọc nghe chú Hai Hưng lên tiếng. Chắc chú thấy cần phải có tiếng nói quyết định :
– Thôi. Theo ý tôi thì xét về lợi ích chung, cũng như xét lợi ích của quận ta, tôi thấy cứ để các cô, cậu ấy lại đây. Anh Ba Trí đồng ý rồi. Nếu anh Lê Quát đồng ý nữa thì ta để lại…
Lê Quát hỏi :
– Đây có phải là ý kiến quận ủy không ?
– Không. Mới là ý kiến của bí thư quận ủy. Nhưng tôi tin quận ủy sẽ nhất trí. Vậy cứ để họ tạm ở đây. Tôi về xin ý kiến Thường vụ rồi sẽ báo sau cho các đồng chí. Vậy được chưa ?
Lê Quát đứng lên, với lấy cái khăn mặt :
– Vậy thì tôi chấp hành thôi. Ôi, mệt quá !
Như Ngọc nghe tiếng Mai Sương từ bếp bước lên, giọng vui vẻ :
– Dạ trưa rồi. Mời chú Hai và các anh nghỉ một chút, dùng cơm. Anh Lê Quát chắc là đói lắm hả ? Rửa mặt đi, rồi ăn cơm, anh…
Như Ngọc bước ra khỏi phòng, tiếp tay với Mai Sương. Cô vẫn còn nghĩ về điều chú Hai và các anh vừa mới nói…
Khổ ghê… Cái gì bắt chúng ta phải gánh chịu cảnh khổ này ?
10. HOÀNG LY
Ly Ly nằm dài trên chiếc sạp trong gian “nhà kỷ luật”. Đó là một mái nhà nhỏ, bốn bên vách kín mít, chỉ có một cửa mở ra chênh chếch với trạm gác. Lúc nào, anh bảo vệ ôm súng ngồi gác ở trạm cũng có thể kiểm soát người bị kỷ luật trong tầm mắt. Ly Ly được đưa vào đây để suy nghĩ về lỗi lầm của mình và làm bản tự kiểm điểm.
Kể ra thì cũng đã lâu, Ly Ly mới có được những ngày dài nằm không để suy gẫm lại mình. Hồi ở Sài Gòn cô cứ quay cuồng trong việc toan tính kiếm tiền. Sau giải phóng, người ta hay lên án những người kiếm được nhiều tiền không bằng sức lao động của mình. Nhưng kiếm tiền đâu phải dễ. Phải tính toán nát óc chứ ! Phải có đủ thứ hiểu biết, có khi chẳng kém một kỹ sư (!), hiểu biết hết mọi ngóc ngách trong cái “nghề” của mình. Phải có “tài”, có “sáng kiến”, có khi phải mạo hiểm nữa. “Có phước làm quan, có gan làm giàu”, xã hội cũ chẳng đã dạy cô như vậy sao ? Cô đã đi theo hướng đó, và cô đã một thời có tiền. Cũng cực nhọc, vất vả, lao tâm khổ trí chớ có phải ngồi không rồi tự nhiên tiền nó đến đâu ? “Ăn thua mình gan” ! Cô đã theo cái “thiệu” * ấy mà suy nghĩ, mà hành động, và… đã có tiền. Thế nhưng bây giờ, qua hai lần bị bắt liên tiếp, cô thấy mình cần tự kiểm điểm để “rút kinh nghiệm” trong việc… ứng dụng cái “thiệu” ấy vào hoàn cảnh mới. Người ta cho cô thời giờ nằm không để suy nghĩ. Càng tốt thôi !
Ly Ly trở mình. Cái sạp giường thân cây chà là trong “nhà kỷ luật” này nó gồ ghề quá, có lẽ người ta cố tình làm vậy để người bị kỷ luật không ngủ được, phải thức để “tự kiểm điểm” ! Ôi, đau lưng ê ẩm. Ly Ly ngồi dậy. Nhưng, nhìn ra ngoài kia, từ trạm gác, cái anh chàng bảo vệ mặt non choẹt vẫn ngó lom lom về phía mình. Khéo tao đi đái mày cũng dòm theo ! Bực quá, Ly Ly lại vật mình nằm xuống, vắt tay lên trán suy nghĩ mông lung.
* Ngày trước ở Nam Bộ, khi học những bài võ, để cho dễ nhớ các miếng võ, người ta đặt những câu thường là có vần, gọi là “thiệu”.
Càng nghĩ, cô càng nhớ Sài Gòn. Giờ này mọi khi mình đã ra đến chợ. Con đường Huỳnh Thúc Kháng đã tấp nập những người. Cái anh bạn hàng đeo kính cận ở bên cạnh đã bật máy lên. Cặp loa Pionner 99.1 tháo nắp trước phát ra những tiếng treble thật rít, thật chát và tiếng bass thật trầm thật ấm, thu hút khách đàn ông túm tụm lại. Trước mặt là bà mập, môi đánh son đỏ chót, chuyên bán radio – cassette loại đời mới, sáu băng, bốn loa, hai ổ, vừa bắt đài vừa thâu nhạc… loại vỏ đỏ, vỏ xanh, vỏ đen, vỏ sắt bóng loáng, với những con mắt đèn đỏ đỏ, xanh xanh, nhấp nháy theo tiếng nhạc xập xình. Các cô cậu thanh niên đứng xem mê mẩn, chân nhịp nhịp, đầu gật gật lắc lư… Trong khi đó thì Ly Ly điểm tâm bằng một tô mì của chú ba Tàu Hưng Ký, chủ cái xe có vẽ hình Lưu Bị cầu hôn Giang Tả, màu lòe loẹt ở mấy miếng kính phía trên. Nước mì ngọt, sợi mì dòn vàng óng, mấy lá xà lách quấn mỡ béo và hành củ phi cháy thơm lừng. Suốt ngày ngồi nghe nhạc, coi người ta đi qua đi lại, thỉnh thoảng gầy “áp phe”, trúng mánh, có tiền xài đã đời… Kể ra cũng sướng chớ có cực khổ gì. Nhưng sống như thế rốt cuộc thì có lợi cho ai, có hại cho ai, cô không cần biết. Chỉ biết cứ sống cho ngày hôm nay cái đã.
Thật ra, không phải cô không cần biết. Những đêm mưa gió bên ngoài, hơi lạnh lùa vào phòng, đánh thức cô dậy, cô nằm trăn trở, không sao ngủ tiếp. Cô nghĩ thương cha, thương mẹ, thương cho số kiếp của mình… Ngày xưa, gia đình cô cũng sống yên lành như bao nhiêu gia đình lao động khác ở thành phố. Ba cô là giáo viên dạy thể dục thể thao tại một trường trung học, tiền lương đủ nuôi sống gia đình một vợ, một con. Mẹ cô ở nhà, lo việc nội trợ. Ly Ly nhớ mẹ thường kể, ngày xưa, ông nội cũng là một nhà giáo, thạo tiếng Pháp và rành cả chữ Nho. Ngày mẹ sinh cô ở nhà hộ sinh tư tên là Hồng Phúc, nằm trên đường Cây Mai, đó là vào một buổi rạng đông. Khi cô ra chào đời, mẹ còn nhớ là đã nghe tiếng khóc của con cùng với tiếng con chim gì hót líu lo rất hay trên cành liễu đẹp, mà bà Hồng Phúc, nữ hộ sinh cao cấp gốc miền Bắc, đã trồng trước biệt thự vừa là nhà thương tư của mình. Đó là một kỷ niệm không quên của người mẹ trẻ cảm thấy mình hạnh phúc khi sinh đứa con gái đầu lòng. Ông nội nghe kể vậy mới bảo để ông đặt tên cho cô bé mới ra đời : Nguyễn Thị Hoàng Ly. Cứ mỗi lần nhắc đến ngày sinh Hoàng Ly, ông nội thường thích thú vuốt râu ngâm bài thơ mà cô còn nhớ cái câu có tên Hoàng Ly :
“Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu”.
Nghĩa là : Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc. Ông nội bảo nghe chim hót trên cành liễu buổi sáng cùng với tiếng khóc của đứa con gái sơ sinh thì nên đặt tên con là oanh vàng : Hoàng Ly *
Hoàng Ly lớn lên trong ngôi nhà do ông nội để lại, một căn nhà nhỏ có vườn ở phía Cầu Kho. Trước nhà, một cái sân con với hòn non bộ, trên đó cây sộp bám rễ lòng thòng vào các khe núi giả. Đọt sộp màu phớt hồng, mềm như lụa, ăn chua chua, Hoàng Ly hay hái xuống chơi trò bán hàng với các bạn nhà bên cạnh. Thỉnh thoảng mẹ cũng hái từng nắm đọt sộp trên cây ấy, khi mẹ đãi cả nhà một bữa bánh xèo vào ngày chủ nhật. Dưới cặp mắt trẻ thơ của Hoàng Ly, cuộc sống gia đình lúc đó sao mà hạnh phúc ! Rồi cô gái lớn lên, cắp sách đến trường tiểu học, ngôi trường có hàng rào me keo trái cong vòng, chín đỏ. Buổi trưa Hoàng Ly
—
đi học sớm, tìm những cành trúc buộc nối lại, hái me keo, tranh cả với đám con trai, có khi còn táo tợn trèo lên thân cây đầy gai để với hái những trái chín đẹp nhất. Có bận, gai me keo móc rách toạc cả một ống quần, hở cả bắp chân xây xước, máu rướm đỏ hồng trên làn da trắng trẻo. Cô không sợ, cũng không biết mắc cỡ. Cô chỉ vui thích vì lấy được trái me keo chín hồng thơm thơm, làm vòng đeo ở cườm tay, hãnh diện với đám bạn gái và nghênh mặt cả với đám con trai. Chiều về, mẹ cô thấy thế la mắng om sòm nhưng vội vàng dắt con đi rửa ráy mặt mũi chân tay, bôi thuốc đỏ vào chỗ xước. Còn chiếc quần rách, mẹ giấu đi, sớm hôm sau giặt giũ xong, vá víu lành lặn. Mẹ chẳng dám nói với ba, sợ con gái bị đòn đau. Ba cô thường là chiều tối mới đi làm về, mặc bộ đồ soọc, trước xe đạp giắt cái vợt đánh ten-nít. Hôm nào ông về sớm thì chở cô phía trước, mẹ cô phía sau, ra bến Bạch Đằng hóng mát, ăn bò bía. Ông thích xem mấy người câu cá, hay ngồi uống bia bốc nhấm khô mực nướng. Hoàng Ly thích chạy nhảy, cúi bắt, thả diều với các bạn trai vừa quen biết. Còn mẹ thì ngồi nhìn con, thỉnh thoảng gọi cô lại cho nắm đậu phộng rang tẩm đường với muối. Những sáng chủ nhật, Hoàng Ly thường được ba cho ngồi xe, chở đến sân quần vợt. Trong khi ông mải đánh banh thì cô chạy nhảy, chơi cầu trượt, hăng có khi rách cả quần. Trưa về, nếu mẹ la rầy thì đã có ba cười cười, nói cho qua : “Ôi, chuyện lặt vặt, em vá lại cho con là xong chớ có gì. Mình không có con trai. Nó vừa là con gái, vừa là con trai, cũng hay !” Cho đến hết tiểu học, Hoàng lY vẫn được ba dẫn đi hớt tóc “ma-ninh” theo kiểu con trai. Và chỉ khi thi đậu vào trung học, cô mới bắt đầu để tóc dài. Tuy vậy, tánh tình con trai vẫn còn ngấm ngầm sau đôi mắt đen với hàng mi dài, sau lớp da trắng trẻo với những mạch máu hồng li ti bắt đầu rạng lên trên đôi má cô gái trẻ.
Vào trung học, Hoàng Ly có nhiều bạn mới, quen rộng hơn, đi chơi xa hơn. Trường học cũng rộng và cao hơn, có hai tầng lầu, sân trường với những cây còng, tán xòe che mát đất. Lũ bạn phần lớn là con nhà giàu, quần áo thay đổi luôn theo mốt. Hoàng Ly tánh chỉ quen hơn chớ chẳng muốn thua ai. Trong học tập, cô thông minh, học giỏi, xếp hạng cao hơn chúng bạn chẳng khó khăn gì. Cô thích nhạc, mê nghe đĩa, nghe băng, nói năng bạo dạn, không e dè, sợ sệt nên tiến bộ rất nhanh trong môn Anh văn, nhất là phát âm thì cô hơn đứt các bạn cùng lớp. Ba cô rất hãnh diện về cô, dắt cô đi chơi, gặp ai cũng khoe, bắt cô nói vài câu tiếng Anh cho đúng điệu. Được người lớn khen, Hoàng Ly càng thích, lên mặt với chị em. Nhưng chúng bạn, phần đông
* Thơ Đỗ Phủ
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu
Nhất hàng bạch lộ thượng thanh thiên
Song hàm tây lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc đông ngô vạn lý thuyền.
Đại ý là : Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng vút trời xanh
Song ngậm tuyết núi tây ngàn năm
Ngõ đậu thuyền đông ngô vạn dặm.
—
là con nhà giàu, lại hơn Hoàng Ly về mặt khác : hơn quần, hơn áo, hơn đồng hồ, bút máy, hơn xe đạp, có đứa còn có xe hơi nhà đưa đi học nữa… Và chúng nó lại lên mặt với Hoàng Ly, con nhỏ “bận áo dài bà ngoại”, quê một cục ! Nhiều lần, những đứa bạn, trong giờ học luôn luôn kém hơn Hoàng Ly, nhưng đến khi đổi tiết học, ra sân chơi, chúng nó lại bá vai nhau đi ngang mặt Hoàng Ly, môi bĩu lên, hoặc nói một câu bâng quơ nào đó làm cho Hoàng Ly suốt tiết học sau cứ thấy mặt bừng bừng, nóng ran, tức nghẹn cổ. Có lần, một đứa bạn bên cạnh rút ra cái bút bi nắp vàng, rồi liếc nhìn cái bút của Hoàng Ly, môi hơi trề ra như nhìn thấy một con sâu, cái bút với kiểu lấy mực bật lên ở bên hông mà ba cô tặng cô năm vừa thi xong tiểu học. Lần ấy, Hoàng Ly tức điên, chỉ muốn ném luôn cái bút của mình qua đầu con nhỏ kia, ra cửa sổ. Mỗi lần như vậy, Hoàng Ly chỉ còn biết về khóc với mẹ, với ba. Lúc đầu, mẹ cô khuyên lơn, an ủi, nhà mình nghèo, hơi đâu mà đua đòi, không tốt, sau rồi cáu gắt, mắng mỏ. Nhưng chẳng ăn thua. Những năm đó, chánh quyền ông Diệm mở cửa cho xuất nhập khẩu tự do, nhiều nhà làm ăn, phất lên chóng vánh. Hàng hóa nước ngoài cũng ùn ùn tràn khắp Sài Gòn, mẹ cô làm sao ngăn giữ con khỏi chìm trong những làn sóng ấy. Cùng với hàng hóa, là lối sống của xã hội tư bản phương Tây tràn vào, mọi nề nếp, mọi giá trị văn hóa và tinh thần bị đảo lộn hết. Đua nhau, ghen nhau, hờn giận, vui buồn, có khi hại nhau, giết nhau chỉ vì một món hàng mới nhập ! Hoàng Ly từ tuổi ấu thơ, bước vào tuổi của một cô gái dậy thì trong hoàn cảnh đó. Có những buổi sáng, Hoàng Ly trùm chăn nằm nhà không đến trường nữa. Mẹ hỏi, cô bảo nhức đầu. Nhưng qua vài lần, người mẹ tinh ý, đã hiểu con, thở dài nói với chồng cho con tiền để nó đi may một bộ quần áo hợp mốt hơn những chiếc áo dài “bà ngoại”. Nhưng tiền lương của ba cô thì có hạn mà hàng hóa mới cứ tràn đầy. Nhất là những hàng hóa ấy lại do những đứa bạn xấu xí hơn, kém cỏi hơn đem bẹo trước mắt mình với vẻ khinh người, đắc thắng ! Mà Hoàng Ly thì lại có một cái tánh kỳ cục, chẳng biết tốt hay là xấu nữa : tánh chẳng chịu thua ai. Thà chết còn hơn chịu thua, chịu nhục ! Có lẽ những người làm ra hàng hóa ấy đã đánh đúng vào một trong những bản năng ghê gớm nhất của con người : lòng ham muốn ! Ham muốn cái mới lạ, cái hấp dẫn đẹp đẽ, ham muốn vượt lên hơn người… ! Lòng ham muốn ấy, tự nó, chưa phải là xấu. Tốt hay xấu là ở chỗ con người đi theo hướng nào để thỏa mãn lòng ham muốn… Hoàng Ly vừa mới lớn lên, chưa có kinh nghiệm sống, chưa đủ hiểu biết về cuộc đời thì đã nhận ngay cú đánh ấy, liên tiếp không ngơi, từ mọi phía của cái xã hội đang chuyển mình đi theo hướng tai hại là đua nhau, ghen nhau, hại nhau để thỏa mãn lòng ham muốn.
Hoàng Ly chơi thân với bạn trai hơn bạn gái. Một là vì cái tính con trai từ bé của cô. Hai là vì bạn trai nể cô, nể học giỏi, nhất là nể xinh đẹp, cô có thể sai khiến được chúng nó, có thể được chúng bao ăn quà mà xét thấy không cần phải bao “đáp lễ” như với đám con gái. Việc cô có mặt với chúng ở hàng quà đã là một thứ quà tặng cho chúng rồi. Hoàng Ly sớm ý thức được điều đó. Cô mượn băng nhạc, dĩa nhạc của chúng cũng không khó. Và cô thúc giục ba cô mua máy. Người cha ham thể thao, thích văn nghệ, là một người “tân tiến”, nên cùng với con gái bắt đầu lao theo nếp sống của xã hội mới. Cuối cùng, mẹ cô cũng đành thua. Cái gia đình nhà giáo, có nền nếp Nho học, bắt đầu biến đổi… bắt đầu những ham muốn mới, từ ham muốn nhỏ đến ham muốn lớn, từ ham muốn ít đến ham muốn nhiều… do những hàng hóa luôn luôn mới lạ, hấp dẫn cứ khêu gợi không thôi. Như một thứ ảo ảnh đẹp lung linh, nhưng có thể ra chợ trời sờ mó được. Sờ mó được nhưng cứ là ảo ảnh, chờn vờn trước mắt, lung linh…
Đi ăn đi chơi đã có bạn. Bây giờ đi học cũng có bạn mang xe gắn máy đến đón tận nhà, những chiếc xe đời mới, mô đen mới, nước sơn còn bóng loáng. Hoàng Ly vào trường có thể vênh mặt với những đứa con gái trước đây vênh mặt với mình. Còn hơn thế nữa. Chúng nó còn phải ghen tức với Hoàng Ly. Đáp lại, có những lời khinh khi mai mỉa, như những mũi tên bắn lén nhưng đau nhức thấu xương. Lúc đầu, Hoàng Ly đau khổ vì những mũi tên bắn sau lưng ấy, có lúc mất ăn mất ngủ. Nhưng lần lần, cô cũng mặc kệ. Đến bước này thì lòng ham muốn đã đánh ngã luôn danh dự. Nó cứ đi tới, chẳng sợ ai níu kéo nữa. Danh dự, người bảo vệ trung thành của cô, đã bị đánh ngã rồi ! Tuy vậy, Hoàng Ly vẫn còn một chỗ dựa : mình “không có gì” là được, mặc kệ chúng nó, mặc kệ hết. Nhưng, một cô gái còn ít tuổi, một cô gái mới lớn vẫn là một con người bằng xương bằng thịt, “không có gì” sao được… Đi ăn, đi chơi, đi học… đã có bạn bao rước rồi, nhưng còn phải có những đồ dùng của riêng mình chứ. Mà đồ dùng phải đúng mốt, phải loại sang, “thứ xịn” ! Muốn có những thứ đó phải có tiền. Cô làm gì cho ra tiền ? Xin ba cô, chỉ có hạn thôi và trong phạm vi yêu cầu chánh đáng, vừa phải thôi. Nhưng khốn nỗi hàng hóa kia cứ đánh vào lòng ham muốn của cô gái còn chưa phân biệt nổi thế nào là ham muốn chánh đáng hay không chánh đáng. Thêm nữa, bạn bè, chúng nó chẳng có gì hơn mình mà vẫn có đủ mọi thứ, mình sao lại phải chịu thua ! Phải có tiền ! Làm gì bây giờ ?
Ăn cắp ư ? Không ! Đối với Hoàng Ly, lấy cắp là hành động của những đứa ngu, thiếu học thức. Ăn cắp thì trước sau gì cũng sẽ bị bắt. Vậy là “tàn đời”. Hơn nữa, dẫu sao thì cô cũng là con cháu một gia đình giáo chức ! Cô quen biết nhiều, cả bạn trai lẫn bạn gái. Mà các bạn ấy thì, phía sau họ, còn có những mối quen biết khác. Đó là chỗ mạnh của cô, cô liền khai thác. Cô mua giùm bạn này son phấn, nước hoa, bạn kia áo quần, vải vóc, đồ dùng… Và cô đứng giữa ăn lời. Từ những “áp phe” trong học sinh, cô dần dần làm “áp phe” rộng ra ngoài xã hội, theo những mối quen biết ngày càng rộng của cô. Có tiền, cô lại sắm sửa. Lúc đầu, mẹ cô hoảng sợ, đay nghiến, ba cô nghi ngờ, đe nẹt. Cô tức lên, cãi lại, nhiều khi suýt nữa bị bố bạt tai. Nhưng vốn thông minh, vấp phải thái độ của bố mẹ, cô liền đổi ngay chiến thuật. Một buổi, cô về nhà, mang theo một con vịt quay loại ngon nhất Chợ Lớn và một lô bia hộp. Trước giờ ăn, cô bày tiệc ra mâm, mời ba mẹ. Không đợi bị vặn hỏi, cô giảng giải ngay : biết ai cần gì, biết chỗ nào có hàng, biết giữ kín mối, rồi được người ta tin, đặt tiền cọc, rồi lấy hàng, giao tiền, rồi hưởng huê hồng. Cứ thế mà cô được tin, được nhiều người nhờ cậy. Nói tóm lại là : làm ăn “lương thiện” ! Chỉ cần sau vài ngụm bia là ba cô, một giáo viên, con một nhà giáo Nho học đã chuyển hẳn thái độ lư lừ nghiêm khắc sang cởi mở, thoải mái, bắt đầu ngợi khen “sự thông minh” của cô con gái ! Còn bà mẹ thì mỉm cười công nhận rằng vịt quay thật ngon, béo mà lại mềm, con gái bà không phải là đứa không sành nội trợ… Từ đó, ba cô thôi không đe nẹt và không giảng “mo-ran” cho cô nữa, còn mẹ cô thì thôi nhìn cô bằng cặp mắt lo lắng, nghi ngại. Có khi, trông thấy con gái khoe một cái sú-chiêng mới, rất mịn, rất ôm… bà lại còm mỉm cười, khen đẹp, cầm lên rờ vuốt, ngắm nghía. Hoàng Ly thấy vậy, tấn công thêm : “Hôm nào con mua cho má một cái !” Bà mẹ đỏ mặt : “Ồi, đồ quỉ, tao già rồi bận làm gì ?” – “Ý ! Má chưa già đâu, má nịt vô gọn lắm, trẻ lại tới chục tuổi !”. Vậy là cái nếp sống đó, theo những hàng mới lạ, dần dần xâm nhập khắp nhà, phá vỡ dần dần mọi nề nếp lễ giáo cũ… Cho tới cái năm đó… Phải, cái năm đó, đúng là một bước ngoặt, hay nói cách khác thì cái năm đó đánh dấu sự tan vỡ của gia đình nhà giáo nề nếp ấy.
Đó là năm mà mấy chục vạn quân xâm lược Mỹ tràn vào khắp miền Nam Việt Nam. Chỉ trong ít tháng, cách dãy phố có căn nhà của Hoàng Ly không xa, trên miếng đất hoang đầy cỏ chát, đầy cây u du và ô rô, đã mọc lên một ngôi nhà đồ sộ, một cơ quan trong bộ máy chiến tranh Mỹ. Và cũng không lâu, chung quanh đó, kể cả ở dãy phố của Hoàng Ly, đã có nhiều nhà treo lên tấm bảng “For rent” (cho mướn). Và lính Mỹ từ trong sở làm ra ở ngoài phố, ngày càng đông. Nhiều người ở đâu không biết, tới cất vi-la cho Mỹ mướn nữa. Có vài nhà chẳng rộng, chẳng đẹp gì hơn nhà Hoàng Ly, nhưng chỉ cần ngăn lại, lắp cửa kiếng, máy lạnh, làm thêm toa-lét gạch men là có thể cho mướn được tiền gấp mười lần giá mướn nhà trước khi có lính Mỹ. Cuộc sống của những người chủ nhà đó thay đổi nhanh khiến những người xung quanh muốn chóng mặt. Họ mua ti vi, tủ lạnh, máy hát, xe gắn máy và cả xe hơi nữa. Khắp thành phố, ở đâu cũng có lính Mỹ và ở đâu cũng có cách vơ được tiền nếu biết chơi với Mỹ. Nhiều cô gái chỉ biết mấy tiếng yu, yu, ai, ai… (anh, anh, tôi, tôi…) là kiếm được tiền. Còn Hoàng Ly, tiếng Anh “một cây”, có học thức, cô đâu có chịu thua ! Cô coi khinh, ghê tởm bọn gái làm tiền. Cô có cách riêng chạy “áp phe”, buôn bán nước bọt và dáng vẻ trẻ trung, lịch thiệp của mình, ăn huê hồng. Dần dần, quen với cách sống đó, cô càng trở nên sành buôn bán, rất sòng phẳng trong cuộc chơi, như người Mỹ vậy, ngay cả với bố mẹ mình. Tiền cô kiếm được, cô xài riêng, mua sắm riêng. Biết bao nhiêu hàng cần mua sắm, tiền cô có bao giờ đủ. Còn ba ? Ổng có sở làm, đủ sức tự nuôi sống. Và má ? Ổng phải nuôi vợ ổng chứ, đó là trách nhiệm của ổng, nào phải của Hoàng Ly ? Bởi vì, nhỡn tiền cô thấy đó thôi, mấy cô bạn nghèo trong xóm đi lấy Mỹ, ti vi, cát xét, tủ lạnh, xe hơi… chạy vào nhà ào ào. Hoàng Ly đuổi theo còn mệt. Mới hôm qua, họ còn thua kém cô, kém về học thức, kém về sắc đẹp, mà hôm nay, đã ngồi xe hơi, vênh mặt với cô, cô khinh họ, nhưng cô cũng tức với họ. Vì cô không ưa được lính Mỹ, chỉ đi gần họ, ngửi thấy mùi họ là cô đã lợm giọng chứ đừng nói chi là… Cô có cách của cô. Còn cô bạn vợ Mỹ cùng xóm thì, đánh đùng một cái, một buổi sáng đẹp trời, bỗng nhiên tên chồng Mỹ về nhà, cùng với mấy thằng bạn Mỹ nữa. Thằng chồng ôm chặt vợ, bịt miệng vợ để cho các bạn Mỹ của mình khuân ti vi, tủ lạnh… ra xe nhà binh Mỹ chở đi mất. Hỏi ra mới biết : thằng chồng hết hạn, về nước, cuộc tình chấm dứt, nó dọn nhà đi, chia tay với vợ ! Đã bàn bạc, chia chác sòng phẳng, tất nhiên là vừa xứng với những ngày công mà vợ nó cung phụng nó. Nhưng vợ nó không chịu, muốn lấy hết của. Tất nhiên, nó là người rất sòng phẳng, nó dùng vũ lực thực hiện đúng cái bảng giá đã ra, chỉ để lại cho cô gái những món đồ vừa đúng cái giá của những ngày ăn ở. Còn bao nhiêu, nó mang đi. Thật là sòng phẳng nhé ! Chính từ những ngày lính Mỹ sang, cô gái Sài Gòn, con nhà gia giáo, có học thức, với cái tên Hoàng Ly thơ mộng mà ông nội đặt cho, trở thành cô Ly Ly với cái tên rất mới và rất Mỹ !
Ly Ly ngày càng sống độc lập với bố mẹ. Cô chỉ về nhà vào ban đêm. Còn ban ngày, cô đi miết. Cô thi rớt tú tài đôi, và bỏ học luôn vì từ lâu, cô không thiết học hành nữa. Học để làm gì, trong khi đứa ngu ngốc cũng được tiền nhiều hơn, thành công trong cuộc đời hơn người có học ? Rồi một hôm, cô về nhà thì thấy : nhà cô đã được ngăn ra, xây lại để cho Mỹ mướn. Cô tức giận, hỏi bố thì người cha thản nhiên trả lời : “Ba cần tiền. Ba muốn có xe hơi như người ta ! Còn con, ba có dành cho con một phòng riêng. Đồ đạc mọi thứ của con trong đó, không có gì suy suyển. Đây là chìa khóa phòng con !”. Ôi, lòng ham muốn của con người ! Ly Ly không còn biết nói sao, cay đắng chìa tay nhận chiếc chìa khóa và mau mau mở cửa phòng mình, chạy vào đóng sập lại. Gian phòng hẹp té, chỉ hơn mười mét vuông nhưng gọn gàng, trang nhã, đủ tiện nghi. Bên kia là phòng khách và phòng riêng của bố mẹ. Thôi được ! Chơi vậy cũng là đúng luật, cũng là sòng phẳng ! Chỉ có người mẹ là ngồi buồn thiu, chẳng nói một lời, với đôi mắt như không còn chút thần. Cũng vợ chồng, cha con, cũng sống chung trong một ngôi nhà, nhưng cái gia đình đó giờ đây, về mặt tinh thần, kể như đã tan rã.
Từ đó, Ly Ly càng ít về nhà hơn. Có khi cô vắng nhà năm ba bữa liền. Lúc đầu, mẹ cô hỏi han, nghi ngại. Ly Ly trả lời một cách bực dọc, đôi lúc cáu gắt nữa. Cuối cùng mẹ cô đành thôi, chẳng dám nói gì, bà chỉ còn biết nhìn cô bằng đôi mắt len lén, thẫn thờ. Đứa con gái sống phòng bên giờ trở thành người xa lạ… Còn ba cô, có xe hơi, ông cũng đi chơi miết. Những “xẹc” trong thành phố, rồi Chợ Lớn, Vũng Tàu, Đà Lạt… Cuối cùng thì mẹ cô bị bỏ rơi. Người đàn bà mới ngoài bốn mươi, còn trẻ, đẹp, cứ quanh quẩn tư chợ búa đến gia đình, nhìn thấy con, thấy chồng mà như đã mất hết. Bà như cái bóng rớt lại của cuộc sống cũ, giữa căn nhà chật hẹp nhưng đầy đủ tiện nghi, ti vi, tủ lạnh, máy hát, xa lông, rèm cửa, đệm giường… tất cả đều thuộc loại sang, đúng mốt. Suốt ngày bà quanh quẩn trong nhà, lau chùi, dọn dẹp. Tất cả đều sạch sẽ, bóng lộn. Nhưng bà chủ nhà trở thành nạn nhân, thành kẻ nô lệ cho những thứ hàng hóa đó. Thỉnh thoảng Ly Ly bắt gặp mẹ ngồi thẫn thờ như cái bóng, cô giật mình và tình yêu thương của cô đối với mẹ chợt nhói lên trong tim. Cô vội đi mua một thứ gì đó, để trưa về mời mẹ cùng ăn. Nhưng bây giờ, mẹ cô ngồi ăn những món ngon vật lạ cô mang về mà nước mắt cứ lăn trên má. Cô không chịu được cảnh ấy. Và thôi, cô đành thôi, mặc kệ hết. Mỗi khi tình mẹ con chợt dậy lên trong lòng, cô lắc đầu dằn xuống : có ích gì, chẳng đi tới đâu, chẳng có cách nào cứu vãn, chẳng có cách gì sống lại những ngày ấm êm xưa cũ dưới mái nhà này… Guồng máy xã hội đã bắt trớn và quay tít rồi, nó chỉ có nghiến tới chứ không sức nào hãm lại được.
Một buổi chiều chủ nhật mưa buồn, bố dong xe đi Vũng Tàu chơi từ đêm hôm trước, Ly Ly bị gạt trong một “áp phe”, mất một món tiền lớn, cô buồn bã lê bước về nhà định gặp mẹ mà than thở cho vơi nỗi buồn. Nhà vắng ngắt. Quạt máy phòng khách quay nhè nhẹ, tấm màn gió bay lất phất. Cửa phòng ngủ khép hờ. Ly Ly ném chiếc túi đeo lên nệm ghế xa-lông đẩy cửa phòng mẹ bước vào. Cô bỗng đứng sững như trời trồng, mắt trợn tròn, mồm há hốc nhưng không thể nào kêu được thành tiếng. Lưỡi cô cứng lại, quai hàm cũng cứng ngắt. Cô thấy gì ? Trên giường đệm hoa văn màu ngà, mẹ cô đang nằm dưới tên Mỹ. Tên Mỹ hết sức lịch sự, hết sức ân cần… mấy lâu nay vẫn mướn nhà của cô, bây giờ, lại đang ân cần trên thân thể mẹ cô. Nghe tiếng động, bà mẹ nhổm lên, và qua vai người Mỹ, trông thấy con gái mình trợn mắt, há mồm như một hình nhân đứng ngay giữa cửa !
Ly Ly bưng mặt, cắn môi đến bật máu cho mồm đừng kêu lên một tiếng nhỏ, vơ lấy chiếc túi trên xa lông, rồi cắm đầu lao ra giữa trời mưa đang nặng hạt, cơn giông vừa ập đến ào ào. Cô chạy trong thành phố, băng qua những con đường mà cây sối đang vật vã trước cơn giông. Những con đường lá me bay rào rào. Những con đường hoa dầu quay cuồng trong gió. Người cô ướt đẫm, lạnh run. Mặt đường nhựa phẳng lỳ, vắng tanh và sũng nước. Dân thành phố trú dọc các mái hiên lạ lùng nhìn cô như nhìn một người điên. Không, cô gái trẻ, đẹp, ăn mặc đúng mốt thế kia, chắc không phải là người điên. Nhưng cô chạy đi đâu mà cuống cuồng như vậy ? Mà cô chạy đi đâu bây giờ ? Chạy về đâu ? Một chiếc xe nhà binh Mỹ lao trong mưa suýt đâm phải cô gái. Những người lính ngồi trên xe thò đầu ra, quay lại nhìn cô, kinh ngạc. Lúc đó, cô mới chợt tỉnh, và may có gốc cây bên đường bỗng nhiên thành người nâng đỡ, cô mới khỏi ngã quị. Cô đứng ôm gốc cây, nước mắt tuôn trào cùng nước mưa xối xả…
Mấy hôm sau, cô nghe tin mẹ mình đã thắt cổ tự tử ngay trong phòng ngủ. Đám tang bà, cô không về dự. Cô chỉ nằm một nơi, hình dung ra đám tang mà khóc ngất đi, khóc ngất đi mà không thành tiếng. Trời ơi, cô tưởng như ngực mình, tim mình đến vỡ ra vì những tiếng thét câm lặng ấy. Những năm tháng đó, ở Sài Gòn, có biết bao người như cô, phải thét lên những tiếng khóc lặng câm, cô làm sao biết hết ?
Rồi đến tin người Mỹ mướn nhà cô ở bị giết chết. Cha cô thì mất tích và bị tình nghi, bị truy nã. Nhà cô thì bị niêm phong. Nhiều lần, cô lặng lẽ đi ngang nhà mình. Nó vẫn nằm đó, phía trước vẫn còn hòn non bộ với gốc sộp cỗi cằn, song dáng vẻ nó trông hiện đại, đẹp đẽ hơn ngôi nhà xưa, với hàng rào sắt và kẽm gai thật cao… mới có từ khi người Mỹ đến ở. Ngôi nhà hiện lên, khang trang, kiên cố, rất hấp dẫn. Nhưng bên trong nó, cả một gia đình đã tan nát cuộc đời. Trong đó, những hàng hóa đẹp nhất, mốt mới nhất, niềm ham muốn khát khao của bao nhiêu người, giờ đây, đối với Ly Ly đã tan biến đi như trong chuyện thần thoại ma quái. Ngôi nhà nằm nguyên đó, nhưng thật ra, nó bắt đầu sự tan rã từ khi những hàng hóa mới, theo lòng ham muốn mới của con người, bắt đầu về ngự trị ở bên trong… Ly Ly chưa hiểu hết điều đó. Song dù có lờ mờ nhận thấy, cô cũng không biết làm cách nào. Đập phá, vứt bỏ chăng ? Đâu có được. Nó vẫn là cuộc sống mà. Cuộc sống nào cũng phải cần những thứ đó. Chỉ còn có cách là cô phải vứt bỏ lòng ham muốn. Mà lòng ham muốn của con người, làm sao vứt bỏ ? Đi tu chăng ? Tiếng chuông chùa ngân nga mỗi buổi hoàng hôn, hay tiếng chuông nhà thờ rộn ràng khi bình minh đến, có thể sẽ làm dịu nỗi đớn đau của cô gái trẻ. Nhưng, liệu con người có thể sống bằng tiếng chuông được chăng ? Đời bây giờ, chẳng còn mấy người tin chuyện đó. Ngay cả những người tu hành, áo cà sa vàng hay áo chùng thâm vẫn thấy hãnh diện khi ngồi trên xe Honda chạy phình phịch giữa đường tráng nhựa hơn là bưng ô đồng bước từng bước đi khất thực ở vỉa hè ! Thôi thì phó mặc hết. Sống ngày nào biết ngày ấy. Nếu muốn khỏi bị người ăn, thì trước tiên là phải ăn người. Đó là điều Ly Ly rút ra và làm theo khi cô mới lớn lên, khi cô mới hơn hai chục tuổi đầu ! Cô phải cố chạy vượt lên trước guồng máy, nếu không muốn bị nó nghiền nát. Cô phải chạy, dù đuối sức hụt hơi vẫn cứ chạy, vì cái guồng máy cứ ầm ầm nghiến tới từng ngày.
Ba mươi tháng tư năm 1975. Cùng với tiếng xích xe tăng của quân giải phóng, cô cảm thấy có một sức mạnh gì ghê gớm, siêu nhiên đã hãm đứng cái guồng máy cũ. Nhưng sau đó ít lâu thì, cô lại cảm thấy : Ừ, có hãm, nhưng nó vẫn chưa đứng đâu. Chưa đứng vì cái máy cái của nó vẫn còn khỏe lắm, vẫn quay ầm ầm, tuy ở mãi bên kia bờ đại dương. Ngay cả ở đây, nó vẫn còn nghiến tới, chí ít là nghiến những số phận con người vốn từng nhập thân ít nhiều cùng nó, như cô. Song, Ly Ly cũng ngày càng cảm thấy có một sức mạnh của guồng máy khác, quay theo kiểu khác. Sức mạnh đó đã đưa cô ra vùng rừng ngập mặn này, đã hai lần ngừng được hướng quay trong cuộc đời cô. Bây giờ nằm đây, cô đang suy tính cho những ngày sắp tới. Cô sẽ quay theo hướng nào đây ? Cô không có sức mạnh riêng nào của bản thân để quay theo hướng mới. Và cha mẹ cô cũng không để lại cho cô một gia tài tinh thần nào để cô làm vốn đi vào hướng mới. Lần đầu tiên, cô giật mình, thấy mình tay trắng và phiền trách mẹ cha. Nhưng thôi phiền trách cũng chẳng ích gì, cô không có gan tự mình dấn thân theo hướng mới như rất nhiều bạn khác. Vậy thì cô chỉ còn có cách quay theo quán tính mà thôi…
Nhà văn Trần Thanh Giao và tiểu thuyết
Previous Post: Hoàng Trần Cương và trường ca Trầm tích
Next Post: Táo mèo