Tiểu sử Phạm Thanh Khương.
Phạm Thanh Khương
Sinh ngày: 15 – 4 – 1959
Quê quán: Đình Phùng, Kiến xương, Thái Bình.
Nơi ở: Đức Giang, Long Biên, Hà Nội.
Nghề nghiệp: Bộ đội.
Nơi công tác: Báo Biên phòng.
Ngày vào đảng: 7/8/1983
Văn hóa: 10/10
Trình độ: Đại học
Tốt nghiệp: Đại học Biên phòng.
Học viện Chính trị quân sự.
Đào tạo giáo viên Biên phòng.
Đã xuất bản:
Nước mắt thời con gái: Tập truyện ngắn
Tiếng gọi đời sau: Tập truyện ngắn
Dòng sông tật nguyền: Tập truyện ngắn
Bốn chiều gió cả: Tập thơ
Giải thưởng:
– Giải Ba cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ quân đội 1989-1990.
– Giải Ba cuộc thi bút ký Văn nghệ quân đội và Bộ Tư lệnh BĐBP tổ chức năm 2003 – 2004.
– Giải Nhất cuộc thi bút ký Văn nghệ Hạ Long năm 2004.
– Giải Ba cuộc thi bút ký phóng sự báo Giáo dục -Thời đại 2004.
– Giải Nhì bút ký của Bộ Văn hóa – Thông tin năm 2004.
– Giải Tư cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ quân đội 2005 – 2006.
DÒNG SÔNG TẬT NGUYỀN
1- Bây giờ đang là cuối đông, những trận gió mùa tràn về rứt từng chiếc lá cuối cùng trên cây bàng già nua bao năm đứng trân trân chịu trận bên bờ sông. Cây bàng có từ bao giờ tôi cũng không biết, nhưng quanh năm suốt tháng, mỗi khi từ đồng về, người ta lại đem bầy trâu buộc vào mấy cái rễ trót mọc trồi lên trên mặt đất. Chỗ đất buộc trâu lúc nào cũng nham nhở, nhầy nhụa, lở loét, khai và khăn khẳn mùi phân. Những ngày nắng ráo còn đỡ chứ phải ngày mưa không một ai dám đặt chân vào, đất ở đấy sủi bọt lục bục như lỗ trạch lòng mương nước. Từ những vũng trâu đằm, mùi khắm, khai, thối, bốc lên theo gió loang xa cả một vùng sông nước. Rồi nước từ những vũng trâu đằm ấy chảy xuống sông, hoà vào nước mặc người đôi bờ hì hụi gánh về đổ bể lấy nước ăn. Những ngày như thế, cha thường bắt tôi chèo thuyền ngược lên hướng thượng nguồn mới cho nổi lửa nấu cơm.
Mùa hè, từ mờ sáng cho đến nửa đêm, lũ trẻ trâu tóc cháy đỏ hoe râu ngô, người ngập ngụa mùi bùn tanh nồng trèo đầu cưỡi cổ, vặt lá bẻ hoa, lân theo mấy cái cành đua ra mặt nước, hò nhau nhảy xuống. Có nhiều lần, lũ trẻ nhoai người hái bàng chín, không để ý, cành yếu, rơi từ trên cao xuống, máu mũi, máu miệng chảy đỏ ngoe đỏ ngoét theo nước lẫn vào màu da đen cháy. Đối diện phía bên kia bờ là bến nhà tôi đấy, nơi cha tôi thường neo thuyền lại nghỉ ngơi sau mỗi lần đi xa về.
Nói là bến nhà tôi cho oai chứ thực ra chả của ai cả, chẳng qua do thói quen đậu thuyền mỗi khi thuyền nhà tôi về khúc sông này, lâu ngày thành quen rồi tiện mồm cứ gọi thế cho dễ nhớ, dễ hình dung. Tôi cũng không thể nào nhớ nổi tôi đã đi đến bao nhiêu con sông trong vùng đồng đất mà người ta cứ cho nó là vựa thóc của đồng bằng sông Hồng. Ai muốn gọi thế nào cũng được vì nó chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhà tôi.
Bản thân tôi cũng không có nơi sinh chứ nói gì chỗ cắm sào là của mình. Biết mình không có nhưng ai hỏi vẫn phải nói có. Nhiều khi tôi nghĩ, khổ nhất ở đời này rõ ràng không nhưng cứ tự nhận mình có, nếu không nó thèn thẹn, xâu xấu thế nào ấy. Những chuyện như thế, cha tôi nghe thấy, nếu ông đang ngồi thường nhấc đít lấy tay phủi phủi mông kiểu người ta phủi bụi, còn đang đứng, thế nào ông cũng chạy ra mui thuyền vạch quần đái rồi khạc nhổ quá bằng có cục đờm to đút nút lấy cổ.
Năm nay trời lạnh cá cũng không chịu đi ăn đêm, và khi người khôn của lại hiếm. Cứ như hiện nay, các loại cá sông có đẻ hằng đêm thì cũng khó mà duy trì được giống. Để đánh bắt con người không từ bỏ một thủ đoạn hay phương pháp nào. Trước kia, những gia đình sống bằng nghề sông nước tuy không ai quy định nhưng mọi người đều ngầm thống nhất các loại vó lưới dày mau không dùng vì còn để cá lớn. Nhưng nay thì khác, vó lưới dùng loại dày, rồi kích điện, đánh mìn, hoá chất. Cộng thêm vào tệ đánh bắt không cần biết hậu quả về sau, thuốc sâu từ đồng ruộng chảy xuống, nước thải từ các nhà máy công nghiệp chảy vào, từ các khu dân cư vô tư đổ đến. Một thời sông trong trẻo, thơ mộng cho những ai yêu văn thơ tha hồ sáng tác, còn nay sông một mầu đùng đục xam xám đen tang tóc. Có nhiều loài cá ngày xưa nhiều như trấu còn bây giờ đánh bắt cả tháng không được một con. Hầm cá trong lòng thuyền nhà tôi ngày xưa lúc nào cũng nhung nhúc, chiếc sạp lát sàn đêm đêm cá quẫy nước bắn lên ướt đầm phải lên mui mới ngủ được, còn bây giờ hôm nào nhiều chục con, ngày ít hai ba con, ngủ không phải lên mui như trước nữa. Tiếng cá quẫy lòng thuyền chỉ còn là ký ức của những năm tháng hoài niệm.
Ngày ấy, khi cá còn dễ đánh bắt, kho nấu cá bao giờ cha tôi cũng chặt vứt bỏ khúc đầu, đuôi chỉ lấy khúc giữa. Ông thường bảo tôi rằng, ở đời ăn uống từ đầu chí cuối mất cả phần con cháu, đồ phàm phu tục tử, không đáng sống. Mặc ông nói thế nào tôi cũng kệ, thực ra tôi nghĩ chẳng qua là do ông làm nghề chài lưới, kiếm con cá con tôm không vất vả khó khăn như những người khác nên thế thôi. Mà lạ lắm, tất cả các món ăn chế biến từ cá ông thích nhất là món kho mể. Món kho mể chẳng có gì cầu rình phức tạp, người làm cá chỉ mỗi việc mổ cá, để nguyên cả máu rồi cho vào nồi đất, đổ nước xăm xắp cho lên bếp đun, bao giờ cá chín nhừ là bắc ra ăn, múc cả khúc cá với nước cá kho còn nóng nghi ngút khói. Nước kho cá chan cơm ăn còn ngon gấp mấy lần nước mắm đầu nong đầu nia, nước mắm cất.
Thích thế nhưng dẫu có ngon đến mấy, ông chỉ ăn một bữa còn lại đem đổ hết xuống sông, không bao giờ để lại ăn bữa thứ hai. Có một lần tôi thấy cá ngon, tiếc của giời đem cất đi tối lấy ra. Vừa nhìn thấy ông chẳng nói chẳng rằng quăng luôn cả nồi cá xuống sông, xong chửi, bảo tôi là đồ khốn, giống hệt tính cái con mẹ đẻ ra tôi. Những cái gì ông không thích, những lúc nào ông bực, ông thường chửi tôi như thế. Mỗi lần như thế tôi rất sợ, nghe giọng ông chửi, tiếng rít qua kẽ răng, người tôi cứ co rúm lại, chân tay tự nhiên run bần bật, không thể nhúc nhắc, chẳng khác gì người ta đem dây trói chân trói tay tôi lại.
Tối qua trước khi đi ngủ cha tôi nói giọng như giao hẹn.
– Sáng mai nhổ neo đi, liều liệu tính toán cơm nước mà đi sớm- Ông lầm bầm- Cứ thế này rồi không có cả cứt mà đổ vào miệng.
Chả cần biết mọi người có nghe thủng việc không, ông lấy vò rượu, đổ đầy bát tô, uống cạn một hơi rồi trải chiếu chui vào khoang thuyền nằm ngủ.
Nghe ông nói, tôi hãi im thin thít làm theo, không dám ho he gì. Cô Hến cũng thế, cun cút dọn dẹp các thứ cho vào cái hòm đựng đồ bằng sắt tây đã hoen gỉ. Biết tính ông chỉ nói một lần, không nhắc lại, sáng nay mọi người dậy sớm để chuyển thuyền lên khúc sông trên.
Tôi quên không nói, nhà tôi hiện tại có ba người. Tôi, cha tôi và người đàn bà cha nhặt ở bến Trầm, còn người đàn bà sinh ra tôi đã bỏ dòng sông cùng những chuyến phiêu bạt gió sương đi đâu không rõ. Ngày bà bỏ tôi và cha ra đi có một phần lỗi thuộc về tôi, còn cha tôi, từ ngày bà bỏ đi, cứ uống rượu là ông chửi mặc dù không hề nhắc đến tên ai nhưng tôi biết, người ông nguyền rủa, thâm thù, cay đắng không ai khác chính là bà, người được ông nhặt lên từ mó bỏ mồi cá ngày nào. Cũng sau ngày bà bỏ đi, đến bến nào, nghỉ ở khúc nào, miễn là nơi chiếc thuyền có thể cắm sào, gặp người đàn bà nào có thể nhặt được là ông nhặt. Rồi như con thuyền, cắm sào một chốc một lát nhổ neo đi, người đàn bà ông nhặt ấy sau một vài ngày ông cũng nhổ cọc rút sào đi luôn, vứt trả lại bờ không thương tiếc.
Mờ sáng tôi dậy thu xếp chài đem buộc lên cái cọc cắm ở đầu thuyền như cây nêu để phơi, công việc này trước đây là của mẹ tôi, còn bây giờ, tất cả những người đàn bà kia, những người ông nhặt sau bà đều không được làm. Khi tôi lụi cụi phơi chài, cô Hến hì hụi nhóm lửa phía cuối thuyền thổi cơm. Tôi đang đứng trên mui giũ chài thì thấy loảng xoảng rồi tùm tũm xoong nồi, rổ rá và cả chiếc kiềng gang ba chân theo nhau rơi xuống sông. Đuổi theo tiếng đồ vật rơi là tiếng chửi của cha tôi, tiếng chửi nhằm vào cô Hến chứ không vô chủ như mọi lần, lời chửi gay gắt và độc địa.
– Đồ ngu, mày nhóm bếp thế thằng bố mày ngủ được à. Mày không biết làm gì hơn việc cong tưỡn cái mông lên hay sao.
Khốn nạn. Không, sự khốn nạn đến tận cùng nhưng người đàn bà cha tôi nhặt trên bến sông Trầm vẫn không hé răng nói lấy một lời, cô nhẫn nhịn chịu đựng, nem nép chui qua khoang nhà thuyền ra phía đầu mũi ngồi lặng lẽ lấy vạt áo chấm chấm mắt. Khổ quá, ở thuyền sáng mai ra đàn bà con gái không bao giờ được ra mũi thuyền ngồi, vừa ăn chửi xong lại ra đấy không chừng vớ cái đạp lộn xuống sông bây giờ. Nghĩ thế tôi bỏ dở công việc len lén tụt xuống kéo cô lên mui ẩy về cuối thuyền trong khi cha tôi chui lại khoang trùm chăn ngủ tiếp. Việc cô để khói khi nhóm bếp bay vào trong khoang chẳng qua tôi biết, khi ngủ, bao giờ bố tôi cũng cắm hai sào, một phía mũi, một ở cuối để phòng khi đêm trở gió thuyền không xoay ngang xoay dọc làm mất giấc. Sáng ra, khi nấu cơm phải nhổ sào tháo dây phía cuối thuyền để cho thuyền ngược hướng gió nấu nướng khói mới không vào khoang. Cô Hến người trên bờ biết làm sao được điều này nên sáng ra cứ thế nhóm bếp làm khói bay vào khoang, mà khoang nhỏ thì có khác gì hun chuột, ngột ngạt và hơi khói khó ai có thể ngủ được. Bài học vỡ lòng đời thuyền không xong chắc không sớm thì chày cô Hến lại được cha tôi vứt lên bờ như những người đàn bà khác.
2- Những người đàn bà đi qua cuộc đời cha tôi đều là những người ông nhặt được trên sông và trên bờ từ những chuyến đi kiếm ăn lênh đênh sông nước. Người đàn bà đầu tiên và cũng là người sinh ra tôi là người ông nhặt được từ một mó bỏ mồi cá.
Người làm nghề chài lưới trên sông không phải ai cũng có nghề như nhau mà thực ra mỗi người, mỗi vạn chài có một nghề riêng mà bây giờ mọi người cứ bảo nó là nghề truyền thống ấy. Có người cả đời sông nước chỉ sống độc một nghề thả câu, có người buông lưới, có người quăng chài, có người đi te hay đóng đăng, đóng túi. Cũng như cha tôi, cả đời chỉ có một nghề đánh chài mò. Trong các nghề sông nước, nghề chài mò là nghề vất vả nhất.
Người làm nghề chài mò phải có sức khoẻ, khả năng lặn sâu, lâu, chịu được sức ép của nước, ai không có sức khoẻ làm nghề này rất nguy hiểm đến tính mạng. Đã có một vài người tưởng nghề chài mò dễ kiếm ăn lao vào, hôm trước hôm sau phải bỏ vì không chịu được. Độ sâu để đánh chài mò thường phải từ hai mét trở lên. Mỗi khi quăng chài, người đánh phải lặn xuống, dùng chân dận cho bốn xung quanh mép chân giềng chài ngập sâu vào bùn mà phải làm nhanh nếu không cá sẽ theo mép chân giềng chui ra ngoài. Người chịu được không sao, người nào yếu, khi làm xong việc đó, lúc nổi lên mặt nước ộc máu mồm máu mũi, nếu ai chảy máu tai coi như cầm chắc cái chết.
Công việc đánh chài mò cũng rất phiền phức, nhiêu khê. Để đánh chài mò, trước tiên người đánh phải lặn xuống sông lấy tay hoặc chân gạt lớp bùn non, đào một cái hố sâu khoảng hai mươi đến ba mươi phân, rộng bằng cái thúng rồi bỏ mồi vào đó. Cái hố bỏ mồi đấy người ta thường gọi là mó bỏ mồi. Mồi để đánh thường làm bằng cám rang, trộn với thóc, phân người tươi, phân trâu bò và các loại xác giun, cào cào châu chấu. Sau khi đã trộn các loại đó với nhau, người ta lại đem trộn với bùn rắn hoặc đất thịt cho thật nhuyễn rồi chia chỗ mồi đó thành nhiều phần, mỗi phần là mồi của một mó làm sao nắm mồi đó to bằng cái ấm chuyên pha trà là được. Ngày còn bé, mỗi khi cha tôi làm mồi thường bắt tôi phải ị vào cái vại sành để lấy phân trộn mồi. Hôm nào không muốn đi phải rặn đến đỏ cả mặt nổi gân nổi guốc cực khổ. Những lần như thế ông thường chửi tôi là đồ toi cơm, vô tích sự rồi đuổi tôi ra và kéo quần ngồi luôn vào đấy làm công việc cung cấp nguồn nguyên liệu làm mồi. Mà cũng lạ, cái giống cá chép sông sao thích loại mồi có phân người tươi thế không biết. Các loại khác có làm thơm đến đâu mà không có phân tươi là nó không chịu vào mó ăn.
Người đàn bà sinh ra tôi và cũng là người cha tôi nhặt được trên sông chính từ cái mó bỏ mồi ấy.
Năm ấy mùa đông như kéo dài hơn, rét nhiều hơn, cá mú dường như cũng ít hơn và con người sống cũng ít tốt hơn. Ấy là theo cha tôi nói thế chứ tôi lúc đó còn đang ở bờ tre gốc dứa nào chưa biết. Sau khi đã uống cạn bát nước mắm trước khi xuống nước, ông quăng chài, nhưng chả hiểu sao, đáng lý phải quăng chài bẩy, nghĩa là chài dài sải ba (bẩy thước bắc bộ, mỗi thước bốn mươi phân, chài bẩy chiều dài bằng hai mét tám) ông lại quăng chài chín. Vì chài chín quá dài, cá dễ lặn xuống bùn chui qua giềng ra ngoài nên ông quăng chài xong sực nhớ ra vội vàng xuống sông ngay. Sau khi lặn dận chân giềng ông có cảm giác không có cá, vì như mọi lần, khi lặn dận chân giềng là thế nào cũng chạm cá lao ra. Giống cá chép, khi bị động thường tìm một chỗ bùn lõm để ép mình vào đó tránh. Đánh chài mò, quăng chài xong phải xuống dận chân giềng để cá khỏi ra ngoài và cũng là để cho cá rúc xuống chỗ chân vừa đi, chính chỗ đó đã có các túi lưới, cá vào đó rồi thì không thể nào ra được. Đấy cũng chính là thói quen chết người của bầy cá chép sông, cứ tưởng tránh được cái chết ai ngờ tự chui đầu vào chỗ cho người làm thịt.
Linh tính mách bảo thế nào, nếu như mọi lần, sau khi lặn dận chân giềng xong thường phải lên thuyền ngồi chờ mươi mười lăm phút, đợi cho cá rúc chân giềng mới xuống mò thì ông lại xuống mò ngay. Lặn mò hết cả một vòng chân giềng không thấy cá lao ra động chân giềng ông bèn lặn vào kiểm tra mó mồi. Và ông đã thấy người đàn bà sau này sinh ra tôi nằm cuộn tròn trong mó, cục mồi hết sạch. Chẳng nghĩ ngợi gì, ông để chài đấy đưa bà lên bờ, dốc ngược hai chân vào vai, đầu chúc xuống đất cứ thế ông chạy.
Những năm tháng tuổi thơ của tôi là những ngày lênh đênh sông nước, nay đây mai đó, không có điểm dừng. Nơi cha tôi thả mồi và nhặt được bà từ mó cá không bao giờ ông cho thuyền về đó đậu. Đêm đêm ngày ngày tiếng cá quẫy lòng thuyền là niềm vui của gia đình, nhiều khi cái âm thanh tù túng, vây hãm của bầy cá trong khoang làm tôi toét miệng cười. Tiếng cười, nét mặt tôi khi đó như thế nào không rõ nhưng mỗi khi như thế cha tôi thường nhăn mặt có vẻ khó chịu. Năm tôi lên bẩy tuổi, có một lần mẹ rắng với cha.
– Con nó năm nay đến tuổi đi học rồi đấy, ông xem gửi con vào đâu cho nó học kiếm cái chữ kẻo rồi lại vất vả cả đời như cha mẹ, nó lại oán trách sau này.
Vẫn giữ nguyên nét mặt đầy khó chịu, cha bảo, giọng rít qua kẽ răng.
– Thằng bố nó không học có chết đâu, vẫn sống nhăn răng ra đấy thôi. Học vào rồi mà nứt mắt tý tởn. Không ăn mới chết chứ không có chữ chưa thấy ai chết bao giờ.
Nghe ông nói, nét mặt mẹ đang tươi như hoa bỗng xịu xuống chẳng khác gì gặp trận gió quét, rũ xuống, bã bời, tơ tướp. Không phải đi học tôi càng thích. Tôi nhẩy cẫng lên, để nguyên cả quần áo tôi lao rầm xuống nước, lặn một hơi bơi ra rõ xa mới ngoi đầu lên. Túm tóc đuôi gà bết nước cuốn chặt lấy cổ. Mẹ tôi thấy thế giấu mặt vào sau tay áo.
Cuộc sống nhà tôi cứ thế, đều đặn diễn ra. Sáng mẹ lấy vợt xúc cá dưới khoang thuyền mang đi chợ bán đong gạo, mua rau dưa, dầu đèn và các thứ linh tinh khác. Chiều cha làm mồi rồi chờ chập choạng mang ra bỏ mó, đợi khi trăng lên hay gió nổi hây hẩy, mẹ chèo thuyền cha đứng đầu mũi nhẹ nhàng lướt đến chỗ chiều cha bỏ mồi. Bao giờ mũi thuyền cách mó bỏ mồi chừng sải tay, mẹ dựng mái chèo cho thuyền đứng lại. Cha trên đầu mũi, hơi xoay, vặn người về sau rồi cũng rất diệu nghệ, ông tung chiếc chài lên nở bồng trên mặt sóng, đường chân giềng đã được kẹp chì bung đều vòng tròn, chụp xuống chỗ đã bỏ mồi. Tiếng chân giềng chạm mặt nước chỉ nghe cái rụp. Chỉ bằng một cú quăng ấy lũ cá trót dại vào ăn trong mó khó lòng thoát khỏi bàn tay của cha.
Trong khi chân giềng chìm dần từ mặt nước xuống chạm lớp bùn dưới đáy, nếu là mùa đông, cha bưng bát nước mắm đặc sánh uống một hơi rồi nhẹ nhàng như con rái cá cha lao xuống sông lặn dận chân giềng cho ngập sâu vào bùn. Bao giờ đường chân giềng chắc chắn đã được giấu sâu trong bùn khi đó mới thấy ông ngoi lên mặt nước. Mỗi lần quăng như thế cha thường phải lặn lên lặn xuống từ năm đến sáu lần. Một đêm, cha thường bỏ ít mười mó, hôm nào thấy có nhiều tăm ông làm mười bốn mười lăm mó. Những hôm như thế, tiếng cá tranh phần nước lấp sấp trong lòng khoang thuyền lục cục cả đêm. Gặp những ngày như thế, tôi phải lên trên mui ngủ, còn cha tôi sẽ lên trên mũi, mẹ tôi, bà phải xuống ngủ phía đuôi, nơi cạnh bếp để sáng mai cơm nước sớm cho cha và chuẩn bị đi chợ. Chẳng biết có phải vì làm nghề chài mò lặn nhiều hay không mà ngực cha tôi vồng lên, những thớ thịt căng đầy cuồn cuộn những cơ là cơ. Vồng ngực căng đầy của cha tôi theo năm tháng làm nghề chài mò lép dần xuống không khác gì người con gái xuân thì theo tuổi tác ọp ẹp, xẹp xuống rồi chảy dài ra nhễu nhão.
3- Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn ước giá không có cái buổi chiều khốn khó đó thì đã không mất mẹ, cuộc sống của cha con tôi cũng có khi vẫn chung niềm vui ăm ắp tiếng cá quẫy hằng đêm trong lòng khoang thuyền rộn rạng. Mẹ tôi sáng sáng vẫn te tái cơm cơm nước nước lo cho cha và tôi cùng lời nhắc nhở trước khi cắp chiếc rổ lên bờ đi chợ. Rằng hai cha con ở nhà chờ bà chợ về cơm nước, đừng sợ muộn mà tự nấu nướng lấy rồi cả nhà lại phải ăn cơm sống. Và tôi, từ lúc mẹ bước lên bờ sẽ leo lên mui ngồi ngóng bà chợ về mua cho bơ bò hạt dưa người ta nhuộm phẩm nhấm nhắt cho đỏ môi. Còn cha, bà sẽ mua cho lạng thuốc lào. Nhận gói thuốc từ tay bà, ông vân vê, vuốt vuốt từng sợi, viên viên hạt bi đặt nhẹ nhàng vào chiếc nõ đã được lấy mũi dao nhọn khoét, gọt, gạt những bớn khói thuốc bám đen xung quanh, tay gẩy gẩy chiếc đóm ruột tre ngâm phơi khô, hơ hơ trên miệng điếu rồi hút một hơi thật sâu, tiếng nõ nổ tanh tách. Đoạn, ông ngửa cổ, chụm môi nhẹ nhàng nhả từng sợi khói phơ phất bay mỏng mảnh như dây chỉ trắng lên trời. Cha quay ra khen: Hôm nay bà nó mua thuốc lào của ai mà hút có hậu thế. Nói có khi chưa xong câu, ông đã nằm quay ra sàn thuyền lơ mơ nghĩ những gỉ những gì không biết và bật cười. Mẹ nghe thế nguýt cha một cái rõ dài, tủm tỉm cười theo. Tôi thực lòng chẳng hiểu đầu đuôi thế nào cũng lăn xuống sàn, giơ hai chân lên trời giẫy giẫy cười hùa theo. Đêm ấy không có gió, thuyền nhà tôi cũng bồng bềnh, dập dềnh nô giỡn với sóng, trăng và nước.
Ấy là ước giá thế thôi chứ cái cảnh đó bây giờ nó đã quá xa với tôi rồi. Tôi cũng không còn nhớ là đã phải xa nó năm năm hay sáu, bẩy năm gì nữa, xa như tiếng cá quẫy lòng khoang thuyền của cha con tôi bây giờ vậy. Nhiều hôm thấy tôi ngồi bần thần ông chửi.
– Nhớ nhớ nhung nhung cái gì. Cái mặt mày rồi lại như con đẻ mẹ mày, quân ăn cháo đá bát. Loại người gì sống không bằng loài chó. Mà chó nó cũng không bao giờ bỏ con như cái con mẹ mày đâu. Ngồi đấy mà thuỗn cái mặt rặn ỉa ra cho ngứa mắt.
Ông chửi thế tôi phải chịu chứ thực lòng, không phải tôi không có lúc giận mẹ. Cái ngày đầu tiên tôi có tháng, thấy máu tự nhiên chảy ra tôi lo đến thắt gan thắt ruột. Tôi học cách người ta cầm máu, vơ không biết bao nhiêu là lá, nhai rồi đắp đến mỏi cả mồm, căng cả bụng nước mà nó vẫn cứ chảy. Bực mình, tôi phải lấy cả một vạt áo cuộn nút lại mới được. Tháng đầu tiên của người con gái tôi phải mất cả cái áo cánh trắng chĩ chụm chắt bóp mãi mới có được. Cũng may, sau đó hơn tuần cha tôi nhặt được một người đàn bà ở trên bến Sủi đã bảo cho tôi biết. Người đàn bà này cũng chỉ kịp bảo cho tôi biết cách làm thì cha tôi đã lại vứt trả bà lại bờ. Giá tôi có mẹ thì làm sao tôi phải mất oan cái áo như thế, làm sao phải một người đàn bà lạ hoắc dạy bảo tôi chuyện đó. Những lần như thế tôi giận mẹ lắm, chỉ có điều, tôi giấu cái giận vào trong sâu mà thôi. Giận thì giận nhưng tôi vẫn nhớ bà nhiều lắm. Giận mẹ một tôi căm thằng chủ cai thầu thợ đấu gấp mười, thậm chí cả trăm lần. Chính nó đã làm tôi mất mẹ và cũng chẳng biết bây giờ mẹ tôi đang phiêu bạt nơi nào. Sau lần ấy nó đã giũ áo bỏ đi để mặc mẹ tôi gánh chịu. Cũng chính nó làm tôi bây giờ nhìn mặt bất cứ thằng đàn ông nào trên đời cứ thấy gian gian, đểu đểu, không thể tin được. Tôi luôn cảm thấy sự khốn nạn ẩn chứa sau vẻ mỹ miều, ngon ngọt, chả biết có đúng thế không.
Năm ấy khúc sông Ghềnh sao nhiều cá đến thế, cha tôi đánh cả tháng mà tăm vẫn sủi lên như bong bóng mưa. Không mấy khi gặp được nơi như thế, cha quyết định dừng thuyền ở đấy chứ không như những lần khác, chỗ nào nhiều nhất cha cũng chỉ cắm sào hai đến ba hôm là cùng rồi lại nhổ neo đưa thuyền sang khúc khác. Theo ông, đánh bắt mãi một chỗ cá chẳng kịp lớn rồi ra chẳng còn cửa mà làm ăn. Sống nhờ cá mà không biết cho con cá kịp lớn, kịp sinh đàn dài lũ thì cũng là quân vô ơn bạc nghĩa. Những chỗ đã đánh bao giờ cha tôi cũng phải đợi hai ba năm sau mới quay lại. Có nhiều khúc sông, khi thuyền nhà tôi quay lại tôi còn không nhận ra nơi ấy đã từng neo đậu vì cảnh vật thay đổi quá nhiều, mặc dù sự thay đổi thường là chán đi chứ chẳng mấy chỗ đẹp lên. Chỗ thì làng mạc tiêu điều xơ xác, cây cối chẳng còn xanh tốt như ngày đến. Chỗ thì bãi lở vào sâu nhôm nhoam, ghẻ lở. Nơi hàng chục chiếc tàu hút cát hùng hục đào bới, tiếng máy nổ rồi khói, váng dầu xả ra đen đặc cả khúc sông. Cái sự mưu sinh của con người cũng ghê gớm, tham lam vô cùng, nó không có một giới hạn nào cả, chẳng biết như thế nào cho đủ. Gặp những cảnh như thế, cha tôi thế nào cũng chửi đổng vài câu rồi mới cho chèo thuyền đi khúc sông khác.
Cũng vì nhiều cá cha tôi cho thuyền neo lại lâu nên việc sáng sáng mẹ tôi đi chợ cũng thành thói quen của nhiều người gần bến. Có một lần mẹ cho tôi theo đi chợ. Từ bến đậu thuyền nhà tôi đến chợ cứ theo con đường nhựa chả biết làm từ bao giờ nhưng đến nay nó đã trốc mặt, những hố là hố, có nhiều cái to hơn cả mó bỏ mồi của cha tôi. Hai bên đường, dọc theo con ngòi, người ta thi nhau đẩy thuyền, những chiếc thuyền nan đầy đất quật thành từng ô vuông vức lấp mấy đoạn ngòi. Mẹ bảo tôi người trên bờ đất chật người đông nên không còn đất để ở phải lấy đất dưới lòng các con ngòi rồi quật cao làm nền nhà. Sống mỗi người mỗi nhà nhưng chết phải chung nghĩa địa, cái lý của người trên bờ là thế. Mẹ thở dài.
– Bao giờ nhà ta mới có tấc đất cắm dùi. Sống không có đất ở, chết không có đất chôn.
Nghe mẹ than thở nhưng thực lòng lúc ấy tôi chả hiểu gì chỉ nghĩ nhà tôi cần gì đất làm nhà. Cả nhà sống trên thuyền, ăn nước sông, uống nước sông, sống nhờ sông. Khúc sông này còn cá thì ở, hết cá thì đi, nhổ con sào đẩy một cái là đã đến chỗ khác. Ở nhà thuyền, mùa hè thì mát, màu đông thì ấm, con cá con tôm lúc nào cũng tươi, nhẩy tanh tách chả sướng gấp mấy lần trên bờ phải chen nhúc chật chội hay sao. Mẹ tôi ước làm gì cho khổ. Nhìn những người lặn ngụp, ngâm mình dưới nước vác lên từng tảng đất vất lên thuyền rồi lại phải quật cao thành gò thành ụ để làm nhà sung sướng nỗi gì. Mẹ bảo tôi những người ấy là thợ làm đấu. Những người này ăn khoẻ lắm, vì thế mới có câu ăn đấu làm khoán. Cả ngày ngâm mình dưới nước nên lúc nào cũng đói. Chả trách cha tôi mỗi bữa ông phải ăn bẩy tám bát vẫn kêu đói. Tôi len lén nhìn những người thợ đấu, người nào người nấy vâm váp, bắp tay, cơ ngực cuồn cuộn như dây chão, dây lèo giằng chèo, kéo cột dựng buồm.
Khi hai mẹ con tôi đi qua chiếc lều bạt dựng cạnh đường, nơi có chiếc xe máy mầu đỏ dựng bên cạnh thì có ai đó gọi.
– Này cô chài, có cá tươi bán cho mấy mớ.
Nghe tiếng gọi, mẹ tôi tong tả đến trước cửa lều, đặt rổ cá xuống đon đả.
– Hôm nay em có mấy mớ cá còn tươi lắm. Mấy anh xem mua cả giúp em cho gọn.
Từ trong lều đi ra là một người đàn ông cao ráo, khuôn mặt vuông vức, hàng râu mờ mờ xanh bao kín cả hai bên má xuống cằm. Đi sau anh ta là ba bốn người đàn ông khác. Một người trong đám nghe mẹ tôi nói thế cười, sán ngồi xuống bên cạnh.
– Cá của em thì tươi rồi nhưng có lạ không em?
Người đàn ông vừa nói dứt mấy người đi theo cười hô hố, nhe cả hàm răng to như bàn cuốc, đen thui đít nồi. Mẹ tôi đỏ mặt xấu hổ. Người đàn ông cao ráo có khuôn mặt vuông vức lườm, thấy vậy mấy người kia vội im bặt.
– Cô đừng giận, họ hay đùa tếu táo thế thôi. Hôm nay tôi có nhiều thợ làm. Cô lấy bao nhiêu để tôi mua cả. Cá nhà cô bán là cá sông, tự nhiên, mấy hôm trước tôi mua của cô, kho mặn mà ai ăn cũng khen ngon, thịt thơm lắm.
Giọng người đàn ông nhẹ nhàng, thủ thỉ nghe ấm áp.
– Người xinh thì cá cũng ngon phải không cô. Hôm nào có cá cứ mang đến đây tôi mua cả cho không phải đi chợ bán nữa, vất vả người bán mà cá cũng mất tươi.
Mẹ tôi lại đỏ mặt, lấy tay kéo vành nón giấu khuôn mặt đang hồng lên sau lời khen. Hôm ấy hai mẹ con tôi đi chợ không phải lo bán cá nữa nên có thời gian cho tôi đi chơi chợ, mua sắm các thứ. Mẹ mua cho cha và tôi mỗi người một bộ quần áo mới. Vui quá tý nữa thì hai mẹ con tôi quên đến giờ về nấu cơm trưa. Tôi vui ra mặt, nhảy chân sáo suốt đường về. Còn mẹ, tôi đoán, chắc mẹ cũng vui nên thỉnh thoảng cười tủm, hai má hồng hồng dưới vành nón. Một quãng mẹ lại gỡ nón nhìn nhanh vào chiếc gương nho nhỏ mà người ta khéo léo gài phía trong áp chóp.
Thuyền nhà tôi cắm sào ở lại khúc sông này đã lâu mà nhìn xuống nước vẫn thấy tăm cá nổi lên. Sáng ra, cha bảo mẹ mang hết cá ở khoang chứa đi bán, không cần để dành làm gì, đánh tối nay nữa rồi đi. Mẹ tôi bảo ông đang đánh được tại sao lại đi vội thế. Ông lừ mắt nhìn mẹ giọng chì chiết.
– Cá đánh lắm cũng hết, người ở lâu dễ hư. Ma quỷ yêu quái chẳng qua là ở mãi một chỗ mà thành. Mèo già hoá tinh thành cáo, chó dữ nuôi lâu phát rồ. Đi hay ở cô không phải nói nhiều, tôi khắc biết.
Nói đoạn, ông chui vào khoang lấy bộ quần áo mẹ mua cho hôm có tôi đi cùng mặc vào. Sau khi đã lên bờ ông quay lại nói vọng xuống thông báo ông đi ăn cưới ở vạn chài khúc sông trên trưa nay không về. Ông còn dặn ở nhà hai mẹ con chuẩn bị sẵn mồi chờ ông về để bỏ mó. Mẹ bắt hết chỗ cá đi chợ, còn tôi, mấy đứa trẻ trâu xóm bãi rủ đánh trận giả rồi chơi trò trốn tìm. Tôi lật mấy tấm ván đầu mũi thuyền chui nấp vào trong đó, xong lắp lại như cũ. Tôi nấp ở đây tài thánh cũng không ai có thể tìm được. Nằm cuộn trong khoang mũi trốn, tụi trẻ xóm bãi rà đi rà lại tìm mấy lần không thấy chúng bỏ đi nhưng tôi nghĩ chúng nó giả vờ để lừa tôi ra bắt nên cứ yên trí nằm trong đó mặc cho chúng nó đi tìm. Đánh trận giả đã thấm mệt bây giờ nằm trốn trong khoang mũi nên tôi lúc đầu chỉ nghĩ lim dim một chút cho đỡ mệt ai ngờ ngủ béng đi mất. Khi tôi đang ngủ thì thuyền tròng trành làm đầu tôi đập vào khung xương gá ván tỉnh giấc. Tôi chưa kịp lật ván chui ra thì đã nghe thấy tiếng thở dốc của mẹ và giọng nói nhẹ nhưng rất ấm giống tiếng người đàn ông mua cá hôm trước ở chỗ làm đấu rằng mẹ làm ông ta mệt quá. Tôi hé mắt qua khe ván, chiếc xe máy mầu đỏ đang dựng bên vệ đê lối xuống bến. Tôi cứ nằm trong khoang mũi chờ cho mẹ và người đàn ông bước đến chỗ xe máy tôi mới lật ván chui ra, ngồi bệt xuống mặt sàn. Khi mẹ trở lại thuyền thấy tôi ngồi sẵn đó, bà ngồi xuống cạnh hỏi có phải vừa ở trong khoang mũi không. Tôi không trả lời nhưng tự nhiên tôi oà lên khóc, gạt bà ngồi ra xa.
Câu chuyện vỡ lở, tôi tưởng cha sẽ đánh cho mẹ một trận hay phải gầm lên chửi mắng. Nhưng không, cha bắt mẹ đến xin người đàn ông ấy một đồng tiền mà không cần biết tiền to hay nhỏ. Sau khi mẹ mang về đưa cha, ông vuốt cho phẳng phiu rồi cất kỹ vào một chỗ. Cũng từ hôm ấy, ông giặt chài phơi phong thật khô cho vào chiếc hòm sắt khoá lại, không làm nghề chài mò nữa. Đến bữa, trước khi cả nhà ăn cơm, ông lại lấy tờ tiền ấy ra, đặt lên mâm và bảo tôi, giọng rất nhẹ nhàng nhưng tôi vẫn nhận ra tiếng gió rít nhẹ trong kẽ chân răng.
– Con cứ ăn đi. Từ nay nhà ta không ai phải làm gì nữa đã có mẹ con đi làm kiếm tiền về nuôi bố con mình rồi.
Một tuần ròng rã, tôi nghe mẹ van xin cha nhưng ông vẫn tịnh như không nghe thấy gì. Mỗi bữa ăn là nước mắt mẹ lưng tròng chan cơm. Rồi một sáng, mẹ cắp rổ đi chợ và không bao giờ trở lại nữa. Đến tối, cha không thấy mẹ quay về, ông bỏ buổi đánh chài, chèo thuyền đúng ba ngày ba đêm đưa tôi sang khúc sông khác. Và khi ấy ông mới làm nghề chài mò trở lại nhưng cũng từ đấy ông đổi tính đổi nết, hay uống rượu và thường đưa những người đàn bà lên thuyền, rồi sau đó một hai hôm ông vứt trả lại bờ. Cá đánh được ông không cho mang lên chợ bán, ai muốn mua xuống bến nói cần con to hay nhỏ, nặng bao nhiêu là ông chui vào khoang, lật tấm ván lát thuyền bắt mang lên.
Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi vẫn thấy căm thù mấy đứa trẻ trâu xóm bãi đã rủ tôi chơi trò trốn tìm. Tôi muốn đập nát cái khoang mũi để cho tôi nằm trốn trong đó. Tôi hận với chính tôi đang chơi lại lăn ra ngủ và tại sao lại tỉnh giấc vào lúc ấy. Liệu hôm đó tôi cứ lang thang chơi với lũ trẻ trâu xóm bãi bắt cào cào châu chấu hay trò ném pháo đất thì mẹ có phải bỏ tôi đi như thế không? Và nữa, nếu cha không căn vặn tôi vì sao lại khóc, bỏ cơm không chịu ăn để tôi phải nói cho cha biết? Nếu tôi biết nói dối? Nếu cha không ném đồng tiền năm nghìn xanh lét xuống mâm trước mỗi bữa ăn cùng câu nói mười lần như một thì mẹ có ở lại với cha và tôi không? Mẹ bỏ tôi mà đi có một phần do lỗi của tôi? Mẹ ơi, giờ này mẹ đang phiêu bạt nơi nào. Thương mẹ, nhớ mẹ, tôi chỉ dám gọi thầm trong bụng.
4- Có một chiều chỉ có hai cha con ngồi ăn cơm trước khi ông đi bỏ mồi tôi hỏi.
– Tại sao lại có sông hả bố?
Vừa bưng bát cơm lên và, ông nói giọng còn lụng bụng trong miệng.
– Vì đời sinh ra bố.
Nghe ông nói thế tôi không dám hỏi thêm kẻo bát cơm ông đang bưng trên tay có cánh bay sang mặt tôi. Mấy năm trước, cha tôi cũng nhặt được một người đàn bà trên bờ đưa xuống thuyền. Cô này nói luôn mồm, thấy cái gì cũng hỏi mà hỏi đến cu ty tỷ muội. Một lần cũng trong bữa ăn, cô hỏi bố tôi về chuyện tại sao con sông này có tên gọi là Bo, con sông kia có tên là Mã, con sông nọ có tên là Sứ. Sau mấy câu trả lời ậm ừ, cô ấy cứ hỏi mãi. Chẳng nói chẳng rằng, ông ném luôn bát cơm đang bưng trên tay vào mặt, chửi.
– Miệng thối như cứt mà ăn cơm cứ nói lắm. Bọt phun phè phè ra hết mâm còn ai dám ăn. Cô về hỏi thằng bố cô ấy.
Dứt lời, ông đứng lên bế thốc cô ném thẳng lên bờ, nhổ neo đẩy thuyền đi tịnh không thèm ngoái đầu nhìn lại. Tính ông là thế, không thích lằng nhằng, làm chài thì cứ việc giỏi bỏ mồi bắt cá, ông chúa ghét thói lính canh ngó chuyện triều đình, đầu không ra đầu mà cuối cũng chẳng ra cuối, vạ rách chuyện. Ăn cơm mốc nói chuyện tám thơm. Biết tính ông thế nên tôi thôi. Ừ, thì cứ coi ông là dòng sông đi. Sông cũng có khúc lở khúc bồi, khúc trong khúc đục, có tội lỗi, có tật nguyền như con người trên bờ kia, cũng có kẻ này người nọ, nếu không làm sao mẹ bỏ tôi khi mới hơn mười tuổi đầu mà ra đi cho được.
Để giúp cô Hến nhóm lửa nấu cơm, tôi nhẩy xuống sông mò tìm lại mấy thứ cha tôi vừa quăng xuống nước. Với tôi, không nói khoác, là con gái thật đấy nhưng chuyện bơi, lặn khó có thằng trai trên bờ nào thắng nổi. Có một lần duy nhất trong đời cha nói vui với tôi. Ông bảo tôi sau này lấy chồng, nếu nó léng phéng con cứ lôi nó xuống sông mà dần.
Ăn cơm nước xong cả nhà đang chuẩn bị nhổ sào chuyển đi khúc sông khác thì chả hiểu sao, cô Hến múc nước rửa bát ngã xuống sông. Tôi còn đang mải thu dọn các thứ, sắp xếp cho gọn, vì trong ngôi nhà thuyền rộng năm, sáu mét vuông nếu không biết cách sắp xếp thì đến chỗ đặt chân cũng chẳng có. Thực ra công việc này là của cô Hến vì dù muốn hay không cô cũng là người phụ nữ nhiều tuổi nhất trong nhà, thương cô nên tôi làm giúp. Mới lại, không biết cô có tồn tại bên cha tôi được lấy ba bẩy hai mốt ngày không hay lại như những người đàn bà trước đây, lâu thì một ngày, nhanh thì một đêm đã bị ông quẳng lại bờ cùng mấy tờ bạc nhàu nhĩ tanh mùi cá. Dẫu sao, tôi cũng là người biết tính biết nết của cha và đã quen với sự sắp đặt trong khoảng không gian chật chội này rồi. Mải làm nên khi cô ngã xuống sông tôi không để ý và với những người nhà chài như cha con tôi, ngã xuống sông là chuyện vặt. Rơi xuống rồi thì bám vào thành thuyền mà trèo lên. Người nhà chài có ai chết đuối bao giờ. Còn cha tôi, khi cô ngã ông biết nhưng mặc. Với ông, muốn ở nhà chài thì phải biết tất cả những gì của đời chài cần có, cho dù nó vất vả, khốn khó đến mấy, bằng không, quy luật cuộc sống sớm muộn nó cũng đào thải. Con người ăn, uống vào rồi cũng phải thải ra, không thải ra được sẽ chết. Nhìn thấy cô ngã song ông vẫn ngồi điềm nhiên hút thuốc.
Đời chài động một tý là chạm nước, không những thế, tất tần tật những gì gọi là sự khắc nghiệt của thiên nhiên người chài phải chịu hết. Từ nắng mưa đến bão gió, người làm chài phải hứng chịu như người trên bờ, thậm chí còn nguy hiểm hơn vì thường phải chịu trực tiếp chứ không được nương tựa vào đâu, được sự che chắn của cộng đồng. Rồi hơn thế, vào mùa lũ, người trên bờ làm ầm ĩ lên nhưng thực ra cũng chỉ nói cho to, đứng để xem chứ có làm được gì. Người làm chài thì khác, phải trực tiếp đối diện với những gì mà người trên bờ lo cuống lo cuồng lên ấy. Lũ, năm nào chả thế. Lũ đến rồi đi, dăm bẩy lần cũng chả nhằm nhò, hề hấn gì. Lũ là việc của trời, còn chúng tôi, đánh chài bắt cá là việc của chúng tôi. Trời có lúc nắng lúc mưa thế thôi. Để tồn tại được những người sống trên sông nước phải tự thích nghi với cuộc sống.
Ngày mới lên hai, để có thể tồn tại được với cuộc sống sông nước, cha ném xuống sông mặc tôi chìm nổi tập bơi. Ông cứ bỏ mặc tôi giẫy giụa quẫy đạp trong nước chỉ đến khi nào sắp chìm mới lấy vợt xúc lên. Những ngày đầu tôi uống căng bụng nước, ông xúc lên, cầm hai chân dốc ngược rồi quay vòng tròn cho nước tháo ra ngoài. Mẹ tôi thắt gan thắt ruột nhưng không thể làm trái ý ông. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cứ chiều chiều là ông quẳng tôi xuống nước. Lúc đầu chân tay còn quềnh quàng như chó, lũm bũm đập nước để ngoi lên, sau rồi quen dần, tôi tự học được cách bơi như thế nào cho nhanh, cho đỡ tốn sức. Những đứa trẻ dân chài lên hai phải biết bơi, lên ba phải biết chèo thuyền, vá lưới, nhìn chài phải phân biệt được chài năm, chài bẩy hay chài chín. Lên bốn phải nhìn sóng biết gió, nhìn nước biết độ nông sâu. Năm tuổi, nhìn tăm biết cá, biết mùa đi đàn tìm nơi sinh sản. Sáu tuổi, đêm nằm ngửa mặt lên trời biết mai nắng mưa hay bão gió, bấm đốt ngón tay tính được ngày con nước. Bảy tuổi đã trở thành dân chài thực thụ, một mình có thể xoay sở tự kiếm sống, xoè bàn tay chai dày như người làm rèn, đánh búa. Cha bảo tôi, chẳng có trường lớp nào bằng cuộc sống thực tiễn, để sống con người phải tự biết làm gì. Kẻ ở rừng phải biết cưỡi ngựa bắn cung. Kẻ làm ruộng phải biết cày, bừa, cấy lúa. Kẻ sông nước phải biết bơi lặn, quăng chài.
Khi chợt nhớ ra cô Hến là người trên bờ làm sao biết bơi như tôi thì cô đã chìm dưới nước không còn thấy cánh tay giơ lên quờ quạng cầu cứu. Từ trên mui thuyền tôi lao vội xuống sông, lúc này chắc cha tôi cũng nhận ra cô Hến không phải người đời chài, ông phóng mình từ trong khoang lao xuống không khác gì con nhái.
Tôi không nghĩ sau sự việc xảy ra cô Hến lại là người chủ động ra đi mà không cần cha tôi quăng trả cô lại bờ như những người đàn bà khác. Trước lúc đi, cô nói với cha giọng thật nhẹ nhàng mà sao nghe tha thiết, chân chất mộc mạc.
– Em biết rồi anh cũng ném trả em lại bờ như những người phụ nữ khác. Để anh làm điều đó anh vừa mang tiếng mà em cũng chẳng sung sướng gì. Thôi thì, một ngày nên ngãi, em xin đi để giữ tròn điều tiếng cho anh. Trước khi xa anh và con, em chỉ xin nói với anh một điều, hận thù chỉ làm cho con người tăm tối. Rồi còn con nữa, nó sẽ sống ra sao khi cuộc đời chỉ một màu đen của lòng căm giận.
Nghe cô nói cha không có phản ứng gì. Ông ngồi bất động, tay xoay xoay chén nước trà mà cô Hến vừa pha cho. Chén trà đặc, nóng khi uống còn đăng đắng trong cổ, uống xong mới thấy vị ngọt và hương thơm của trà, thói quen, ý thích của cha như hút thuốc lào ngon vậy.
Nói xong, cô đưa tay kéo tôi vào lòng, vuốt nhẹ lên tóc. Vô tình, ngón tay cô vướng vào mấy sợi tóc rối. Cô lấy hai tay giẽ giẽ ra rồi khẽ khàng luồn vào như chải thêm một lần nữa. Tự nhiên tôi ép đầu vào ngực cô. Từ ngực cô, tôi nhận thấy có một mùi rất quen mà tôi đã ngửi thấy lâu lắm rồi, không thể nhớ nổi.
5-Cô Hến bỏ đi chả hiểu sao cha cũng từ bỏ ý định di chuyển sang khúc sông khác như dự kiến ban đầu. Ông cũng nghỉ làm chài mấy hôm, chỉ ngồi hút thuốc lào và uống nước chè mặc tôi làm gì thì làm. Lấy cớ nhà hết gạo, rau ăn tôi xin phép cha đi chợ mua sắm.
Cắt đường tôi tìm về bến Trầm. Cô Hến đón tôi niềm nở trong ngôi nhà ba gian mái ngói nằm khuất sau rặng tre gai cuối xóm. Ngôi nhà quạnh vắng, âm ẩm, vôi trên các bức tường tróc loang lổ để lộ ra những đường mạch xây lở loét. Ngay chiếc bàn gỗ uống nước kê ở gian giữa khi chạm tay tôi có cảm giác lành lạnh. Tất cả các đồ đạc trong nhà được xếp đặt ngăn nắp chứng tỏ chủ nhân của nó là người chỉn chu và rất sạch sẽ.
Ôm tôi trong lòng nước mắt cô rơi lã chã. Nép đầu vào ngực cô, tự nhiên tôi lại bắt gặp mùi quen quen mà tôi đã gặp ở đâu đó lâu lắm rồi còn lưu lại trong tiềm thức. Cô luồn tay vào trong tóc tôi, nhẹ nhàng gỡ những chỗ tóc gió làm rối khi tôi đi đường. Nói cái gì, bảo cái gì cô đều gọi tôi là con. Cô hỏi tôi cha mấy hôm nay như thế nào, sức khoẻ ra sao rồi tất tần tật các chuyện ăn uống, sinh hoạt hàng ngày của hai cha con tôi từ ngày mẹ tôi bỏ đi đến nay. Mới có ba bốn hôm mà cô hỏi cứ như đã xa cả năm, cả tháng. Và tôi không thể tin được những điều cô nói cho biết, sự thật đấy nhưng sao nó đến nhanh và bất ngờ quá, một sự thật đến phũ phàng, tàn nhẫn.
Nhà cô có hai chị em. Mẹ cô sinh ra cô thì chết do băng huyết. Bố cô một mình làm lụng nuôi hai chị em đến khi cô lên năm thì ông đổ bệnh và cũng mất. Người chị lên bảy, người em lên năm phải sống dựa vào sự đùm bọc cưu mang của bà con lối xóm. Thời gian cứ trôi đi, cuộc sống cũng dần dần ổn định khi cả hai chị em đã lớn. Để có thời gian lo toan cho người em ăn học mong sao có ngày ngẩng mặt nhìn đời, chị cô đã từ chối tất cả những chàng trai trong xóm đến cầu hôn. Rồi người em cũng học xong trung cấp sư phạm và lên dạy trên vùng cao theo tiếng gọi của Đảng đưa miền núi tiến kịp miền xuôi. Người chị ở lại nhà, sau thời gian nuôi em ăn học lúc này tuổi cũng đã lớn. Nhà quê, con gái hai lăm hai sáu tuổi đã chẳng có người con trai nào để ý. Rồi một ngày có một người trai làng bên đến ngỏ lời yêu thương, người chị đã dồn tất cả tình cảm của mình cho người đó. Khi biết mình có mang, người chị nói cho chàng trai đó biết. Không ngờ, khi nghe chị cô thông báo, chàng trai đó đã từ chối và tìm cách lảng tránh.
Lo lắng cùng quẫn, sợ điều tiếng, người chị đã bỏ nhà đi đến khúc sông làng bên rồi tự tử những mong rửa sạch nỗi nhục nhã mà đời mang lại. May mắn người chị được một người làm chài trên sông cứu sống. Nghĩ đấy là duyên phận trời định và cũng để trả nghĩa, người chị đã ở lại làm vợ người đó. Bao nhiêu năm người chị đã phải giấu giếm thân phận và sự thật để sống một cuộc sống không phải của mình. Nhưng rồi vì người đàn ông đó tính tình khô khan, cuộc sống sông nước không có hy vọng, lại không quen sông nước, cuộc sống gia đình gặp quá nhiều khó khăn. Đúng lúc ấy, người chị vô tình gặp một người đàn ông khác, nói năng cư xử không như người chồng, được người đó chiều chuộng, nói năng nhẹ nhàng kinh tế lại khá giả nên đã sa ngã. Biết đó là nỗi nhục của cuộc đời, người chị đã cố gắng làm mọi việc mà ông yêu cầu để mong cứu vãn gia đình. Nhưng người chồng đã không tha thứ, mỗi khi đến bữa ăn, ông lại đem đồng tiền mà người vợ ông bắt xin của kẻ đối địch về bỏ xuống mâm. Nhục nhã ê chề, người vợ đã dứt ruột bỏ con ở lại để đi tìm cái chết. Trước khi chết, người đàn bà ấy đã viết thư nói toàn bộ sự việc cho người em đang làm giáo viên trên miền ngược và nhờ cậy cô trông nom người con gái của sự lầm lỗi và người đàn ông đã cứu sống mình. Thương chị, người em đã bỏ dạy về để đi tìm. Một lần ra bến sông, cô vô tình nhìn thấy người con gái con ông thuyền chài đang tắm có cái bớt đỏ bên vai trái như lời người chị dặn lại. Và cô đã trở thành người đàn bà ông nhặt được ở bến Trầm này. Người ấy chính là cô Hến và người chị không ai khác là người đàn bà mà cha đã nhặt được ở mó bỏ mồi cá ngày nào, người đã sinh ra tôi.
Kể xong cô Hến đưa tôi đến trước tấm gương tủ, kéo vai áo trái tôi xuống. Chiếc bớt đỏ tròn như đít bát nằm ngay đầu xương bả vai trái, chiếc bớt đã có bao năm rồi mà tôi không hề biết. Cô đưa tôi đến trước bàn thờ, kéo tấm vải che. Trên bàn thờ có ba tấm ảnh, hai người đàn bà và một người đàn ông. Trong hai người đàn bà ấy có một người là mẹ tôi. Nhìn sâu vào tấm ảnh của bà, hình như bà đang khóc, một vệt trắng mờ chảy dài xuống má. Bất giác tôi gào lên: Mẹ ơi. Tôi ngã quỵ xuống.
Tôi lao ra ngoài, theo cánh đồng trước mặt cắm đầu chạy. Tôi không biết chạy đi đâu, chỉ biết rằng chạy thật xa, xa thật nhanh sự thật mà cô Hến vừa cho biết. Trên cánh đồng đang chờ đổ ải, những thửa ruộng đất phơi nắng vỡ dưới chân, bàng bạc trắng, bước chân tôi trật truội, xiêu vẹo vô định giữa một khoảng không gian mênh mông. Tôi vượt lên đê. Chiều tối sập xuống phủ lên tôi màu trắng nhờ nhờ còn sót lại cuối ngày. Một toán người quây tròn tru tréo của bầy sói săn được con mồi. Chúng dằn tôi xuống đê, tiếng cúc áo đứt, tiếng vải bị xé, tiếng lột quần vội vàng như cướp. Chúng cào cấu, nghiến ngấu, vần vò, hùng hục như bầy trâu húc mả, từng thằng đổ sập úp mặt xuống đất cùng tiếng thở hổn hển của niềm khoái lạc, sung sướng. Trong ánh sáng nhờ nhờ và tiếng thở đứt quãng, tôi nhận ra trong bầy sói có khuôn mặt mấy đứa trẻ trâu ngày xưa cùng tôi chơi trốn tìm, có cả mùi máu tanh tanh bọn nhóc lân cành bàng ngã rơi xuống sông ngày nào ngoe ngoét máu. Khi tất cả đã mệt nhoài vì no nê, mĩ mãn, chúng hè nhau đứa cầm tay, thằng túm chân ném tôi xuống sông. Theo dòng chảy tôi trôi xuôi, đôi tay quờ quạng, giật mình nhận ra đang nằm trong mó bỏ mồi cá mà lớp bùn chưa kịp lấp đầy.
6- Khi tôi tỉnh lại đã thấy nằm trong lòng thuyền, cô Hến đang hì hụi làm gì ở bếp cuối đuôi thuyền. Còn cha, ông ngồi cạnh bậu cửa phía khoang mũi, hai chân buông dưới sạp, tay vê vê điếu thuốc lào, như ngày nào mỗi khi mẹ tôi đi chợ về mua cho ông lạng thuốc, ông quay người lại khen mẹ mua thuốc ngon.
Chiều cha lại làm mồi để đi bỏ mó đánh chài. Vừa làm ông vừa nói bâng quơ, không biết ông nói với tôi hay với cô Hến.
– Sáng mai nhà ta chuyển thuyền về bến Trầm. Từ nay sẽ không về đây đậu thuyền nữa.
Có tiếng ai đó gọi phía bờ bên kia, nơi cây bàng già nua có những cái rễ mọc trồi lên làm chỗ buộc trâu.
– Bác chài ơi. Sáng mai có cá để lại cho tôi mấy con nhá.
Tôi nhoài người ra nhìn về phía bên kia bờ, ngước lên cây bàng. Cây bàng đã trút sạch lá, phía đầu chót cành có những chiếc búp nhỏ mầu sâm sẫm nâu. Cây bàng đang vào mùa thay lá mới. Tôi nhìn xuống dòng sông. Trên mặt nước, một vài đám bèo tây trôi lững lờ, thỉnh thoảng lại có vài ba đám rều, rác trôi theo. Những dòng sông cha và tôi đã đi qua, có con sông rộng, có đoạn sông hẹp, có lúc nước trong, có mùa nước đục, có nơi nhiều cá, có khúc ít cá. Con sông thưỡn thẹo nằm thườn thườn mệt mỏi, vô hồn. Nếu dòng sông là cuộc đời thì những người làm chài sẽ có hai cuộc đời, một cuộc đời của người và một cuộc đời của sông. Trong cuộc đời ấy, những căn nhà thuyền, những chiếc máy sùng sục ngày đêm hút bùn, đào bới, khoan khoét, những rều rác phải chăng là vết sẹo năm tháng còn hằn sâu đời sông.
Dẫu trong hay đục, dẫu mùa mưa hay mùa khô, dẫu là gì đi chăng nữa thì sông vẫn cứ là sông. Nơi ấy tôi đã sinh ra. Tôi chỉ cần biết thế. Và sông ơi, còn những điều khác nữa, sông hãy giấu giùm tôi sông nhé, những khiếm khuyết tật nguyền của cuộc đời. Đời đã sinh ra cha để cho những dòng sông, còn tôi, sông đã sinh ra để cho những cuộc đời như cha, mẹ và cô Hến./.
BỐN CHIỀU GIÓ CẢ
1- Tháng năm, những cơn mưa rào không còn bất chợt ào đến rồi ngừng như tính khí của cô gái già đỏng đảnh, mà bây giờ nước đổ xuống ngập ao trào rãnh. Cứ mỗi lần như thế, con đường dẫn ra đầm nhầy nhụa bùn đất. Nước ngập lênh láng hai bên đường, gió đánh táp vào bờ loạp oạp. Cỏ, rác, phân trâu bò sau hàng tuần phơi dưới nắng nóng, khô quắt queo nổi lều bều, lập lờ trên mặt nước. Đêm, đám ếch nhái được thể kêu inh ỏi gọi nhau tìm bạn tình đến nhức tai. Những con cóc cụ, to như chiếc bát úp, nhảy chồm chồm trên mặt đường, bọc mủ hai bên đầu ựa ra một thứ nước trăng trắng nhớp nháp. Những ngày như thế, con đường ra đầm vắng tanh vắng ngắt. Mấy con chó bố tôi nuôi để trông đầm và cho có bầu có bạn cũng không còn le te, tý tớn chạy chơi nhởi hay vào xóm gạ gẫm mấy chị chó cái ra đầm vừa chạy đuổi nhau vừa sủa oăng oẳng. Vào những ngày mưa như thế, bố thường đi quanh đầm bắt những con cá rô bị nước mưa xót mắt róc ngược lên bờ. Tay cầm giỏ, tay chộp cá, chỉ một vòng đầm bố đã có thể mang về cả một chậu đầy. Tôi thường lấy một ít rán lên cho bố uống rượu, số còn lại đem kho khô, phơi ba bốn nắng, xếp vào vại sành, cứ một lớp cá thì rải một lớp lá chuối khô chống mốc để ăn dần. Hàng tháng sau hai bố con không phải lo thức ăn nữa. Thịt cá đồng, quyện nắng dai, nhuyễn vào mùi lá chuối khô, mỗi khi ăn, mùi thơm của cá, mùi thơm của lá chuối khô lẫn vào hương gạo quê thật khó lòng mà quên được.
Đến mùa khô, sau ba tháng mưa, con đường ra đầm đã biến dạng. Do phải ngâm mình trong nước suốt mùa mưa lại chịu những con sóng vỗ liên hồi kỳ trận nên từng đoạn bị sạt. Cộng vào đó, chiều chiều lũ trẻ cưỡi trên lưng trâu để ra thả bên bờ đầm nên con đường càng nhanh hỏng. Lúc nào cũng lầy thụt. Bùn đất lẫn vào phân trâu bò phủ kín mặt đường, ngập ngụa. Con đường ghẻ lở, nhôm nhoam, những ụ đất nhô lên thụt xuống như ổ gà. Mùa mưa qua, lúc đó cũng là mùa người làng làm vụ thu đông. Người, trâu và các loại phương tiện kéo đàn kéo lũ trên đường. Công nông, xe bò thi nhau chạy làm cho con đường nhão ra, xẻ rãnh. Dứt mùa mưa, con đường phơi mình trong hanh khô, chỉ vài ba tuần sau, lớp bụi nhỏ như mạt cám dày hàng gang tay phủ lên trên mặt. Mỗi khi lũ trẻ lùa đàn trâu về chuồng, lớp bụi cuốn lên. Qua hết quãng đường cả bầy trâu chỉ một màu nâu đất.
Với tôi, con đường hỏng vậy chứ hỏng nữa nó cũng chẳng có ý nghĩa gì. Điều làm tôi khó chịu nhất là gió. Gió ngoài đầm lúc nào cũng ràn rạt. Những chiếc lá chuối non vừa nhú lên đã bị gió xé cho tơi tả. Tiếng gió rít đêm đêm, tiếng lá chuối đập vào nhau lạch phạch. Nhiều đêm khó ngủ, tôi nằm nghe tiếng gió chập chờn có lúc như tiếng trẻ nô giỡn, có lúc lại như tiếng gào khóc, tiếng rú rít của ma quái. Lẫn trong tiếng gió là tiếng kêu của bầy chuột đuổi nhau chí choét. Vào những ngày vãn đồng, bầy chuột thường kéo nhau về khu đầm trú ngụ. Những khi ấy, tối tối, mới nhọ mặt người, chúng cắn đuôi nhau chạy vòng quanh đầm. Nhiều lúc phởn chí, chúng nhảy xuống đầm chòm chõm không khác gì người ta ném hòn chuổm kéo vó.
Những ngày có gió như thế, người tôi nổi mẩn ngứa ngáy hàng tuần chưa khỏi. Từ những nốt mẩn ban đầu như muỗi đốt rồi cứ to dần lên bằng quả ổi, bưng mủ. Bao giờ những nhọt bọc đó vỡ ra, mủ, máu chảy đến đâu thì chỗ đó lại nổi mẩn ngứa đến đó. Mùi tanh của mủ làm cho bầy ruồi nhặng kéo về từng đàn, bu kín khắp người. Có những lần, tôi quờ tay cũng nắm được bốn năm con nhặng xanh. Nhấn nắm tay nhẹ một cái có thể nghe thấy tiếng nổ lách tách của bầy ruồi bị bóp vỡ bọng. Xòe bàn tay, một lớp máu, mủ lẫn lộn, nhờ nhờ xanh xanh, đo đỏ dính nhơm nhớp. Mùi thối, tanh, khai bốc lên đến lợm gịng. Tôi cũng sợ chính cái mùi tanh tanh, khăm khắm đến lợm giọng từ người tôi toả ra, cái mùi mà bọn trẻ trâu bảo không khác gì mùi cóc chết thối.
Ngoài những ngày gió, trời nắng hay mưa, có người hay không ai qua lại, phía chót con đường vẫn là gian lều của hai bố con tôi. Không người đến, không người qua, đơn độc, lẻ loi bên bờ đầm. Một thế giới không của đời lặng lẽ sống. Ấy là tôi nghĩ thế, chứ bố tôi, hình như chẳng có cái gì ở đời là quan trọng. Vui không ai hay, buồn không người biết, khổ cũng thế mà vất vả cũng vậy.
Tôi còn nhớ, ngày hai bố con mới chuyển ra đầm ở. Có một chiều, bố nói có việc phải lên huyện. Trong lúc bố vắng nhà, lão Vấn đem lưới đến đánh cá trong đầm. Tôi nói, gọi rồi thậm chí chửi nhưng lão cứ nhe hàm răng cải mả ra cười hềnh hệch. Lão làm như không có tôi ở đó. Lão đánh cá công khai trước mắt, giữa ban ngày ban mặt chứ không thèm lén lén lút lút nên tôi càng bực. Không những thế, khi thu lưới lên bờ, lão còn tụt quần chổng mông vào tôi, khoe cái mông đen sì sì, chóp mông bàng bạc trắng của lớp chai do ngồi lê đánh thớt thời gian dài. Rồi lão xoay người đứng đái tồ tồ xuống đầm, hai tay cầm vẩy vẩy vẽ rồng vẽ phượng. Khi bố về, tôi nói lại. Ông đã không làm gì lại còn ngồi giải thích. Ông bảo:
– Người ta phải đi ăn trộm, ăn cắp chẳng qua cũng vì nghèo quá. Đói khổ sinh đạo tặc mà con. Mấy con cá nhà ta họ có sống hết cả đời được đâu. Bố con mình có cái để người khác đến lấy là mừng rồi. Chuyện bác Vấn có xuống đánh cá con cứ để cho bác đánh. Chuyện đời dài lắm, bây giờ con chưa hiểu được đâu.
Nghe bố nói, tôi chán mớ đời. Tôi chả hiểu bố thế nào nữa. Bụng ấm a ấm ức.
Để bảo vệ đầm, tôi gạ bọn trẻ trong xóm ra thả trâu đổi nải chuối lấy cái súng cao su. Tôi nhờ chúng dạy bắn phòng khi lão Vấn lại đến. Chúng nó khoái trí được gọi là sư phụ, làm thày dạy cho tôi. Khi nghe kể lão Vấn đái trêu tôi, chúng nó hè nhau dựng cây chuối, lấy lõi ngô cắm vào thân để tập bắn. Mỗi khi bắn trúng mục tiêu, bọn tôi lại tự thưởng cho nhau khi quả chuối lúc củ khoai hay bắp ngô nướng. Tôi chả hiểu chúng nó học ở đâu, ai dạy nhưng đứa nào cũng cam đoan rằng, muốn bắn hạ ai đó, chỉ cần bắn một phát vào chỗ ấy là thế nào cũng gục. Lúc đầu tôi không tin nhưng chúng nó thề. Để minh chứng, chúng nó bắt thằng Còi tụt quần rồi lấy cây cỏ gà vụt một nhát vào đó. Cây cỏ gà èo uột thế mà thằng Còi ôm háng lăn long lóc, miệng kêu oai oái, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Để đền bù cho sự đau đớn của lần thực nghiệm ấy, chúng nó bảo tôi mang rá lạc ra luộc bồi dưỡng. Hiệu nghiệm thật nhưng bắn trúng rất khó. Chúng nó lại bảo. Có khó mới phải tập luyện. Phải hàng tháng trời chúng nó chỉ cho tôi được phép nhằm vào một mục tiêu đó. Đến bay giờ, không cần mở mắt, tôi chỉ cần kéo chạc cao su. Buông tay. Tạch. Y phóc là đúng đích.
Ngày bố và tôi chưa bị bệnh cuộc sống vui biết bao nhiêu. Nhà tôi lúc ấy cũng đang ở trong làng, có cả cha mẹ chứ không phải ở lều ngoài đầm coi cá như thế này. Mấy đứa bằng tuổi tôi, tối tối rủ nhau đi bắt cào cào, châu chấu, chàn chạt về hì hụi nướng ăn. Những ngày trèo leo cây nhãn bắt bọ xít, đem thả vào chậu cho chúng quay tít, nhả hết nước đái rồi bỏ vào nồi rang rán. Những con bọ xít rang vàng ăn bùi, thơm ngầy ngậy, đứa nào đứa nấy tranh cướp đến bỏng cả tay, khô cả họng, rát cả lưỡi. Rồi những con bọ xít to bị chúng tôi bắt kéo xe. Những chiếc xe bọ xít kéo sà sà mặt đất trong các cuộc đua để nhận phần thưởng thắng cuộc là vài ba vòng có người làm ngựa. Hàng ngày bố mẹ đi làm. Sáng, trưa, tối cả nhà quây quần bên mâm cơm. Nhiều hôm hứng chí, bố kiệu tôi trên cổ nhong nhong quanh sân hay sang nhà hàng xóm chơi. Hôm nào bận việc, mẹ sai tôi đóng cửa chuồng gà hay thu mấy chiếc bát rếch mang ra thả vào chậu ngâm để tý nữa rửa. Ngày ấy thật thích, nhà tôi lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười. Bọn nhóc trong xóm đứa nào cũng đòi bố mẹ cho sang nhà tôi chơi. Những tối như thế, mẹ thường luộc nồi khoai, hãm ấm nước chè xanh cho bọn tôi nhí nhách và mời các bác trong xóm đến chơi ăn cho vui. Tối tối, tôi ngồi trong lòng bố nghe kể chuyện biên giới, chuyện bố đi dạy chữ cho bà con dân tộc, chuyện bọn buôn lậu giấu hàng trong người. Ngôi nhà bây giờ cũng không còn là nhà của tôi nữa. Nó đã phải bán cho người khác để đưa cho mẹ lên tỉnh. Mẹ ở trên tỉnh có nhớ tôi không. Còn tôi, thỉnh thoảng vẫn mơ thấy mẹ về. Nhưng lần mơ nào cũng thế, mỗi khi bố và tôi bị bệnh, mẹ lo lắng, sợ sệt phải giặt giũ hay lau chùi vết thương. Mơ, nhớ lại như thế, trong lòng tôi buồn lắm.
2 – Ngôi lều bố đưa tôi ra ở nằm ngay cạnh chiếc đầm giữa đồng. Ngày còn bé, mỗi khi tôi khóc, hờn dỗi, mẹ thường doạ, nếu không lặng sẽ mang ra đầm thả để cho ma nuôi. Những con ma có cái lưỡi đỏ, dài hàng mét, ngửi thấy mùi trẻ chiếc lưỡi cứ đưa qua đưa lại. Ngày đó chỉ cần nghe mẹ nói thế là tôi đã sợ, đái uớt sũng cả quần.
Chiếc lều nằm đơn độc, lẻ loi và khuất lấp giữa vườn chuối. Nếu đứng từ xa nhìn lại, chiếc lều lặn hẳn vào trong màu xanh ngằn ngặt của cây, chỉ khi nào đến gần, thật gần mới nhìn thấy nó nép mình vào bên các gốc cây chuối. Căn lều tuềnh toàng tường trát vách, một vài chỗ đã bục chân, lộ cả khung tre ải. Mái lều lợp bằng lá cây mía, trơ cả cọng, phía trên phủ một lớp giấy dầu nhăn nheo, mỗi khi có cơn gió nhẹ thổi qua, chúng run lên, kêu loạch xoạch. Tường hai đầu hồi trát lửng, phía trên hình tam giác, trống huơ trống hoác nhìn rõ cả trời. Nhiều hôm phải tránh gió, nằm trong lều tôi vẫn đếm được những đàn chim bay qua, ngắm mây thay hình đổi dạng khi hình người lúc con vật. Sợ nhất là về đêm, lũ chuột đuổi nhau chạy qua chỗ người nằm rào rào. Trong lều có cái gì cắn được là chúng gặm làm cho nát hết. Cũng vì thế mà tất cả mọi đồ dùng trong lều của bố và tôi phải cho vào trong chum sành, lấy miếng áo mưa bịt kín miệng. Những chiếc chum xếp vào sát chân bức vách lúc nào cũng âm ẩm hơi nước.
Vào các buổi chiều, khi trâu đã no, những ngày tôi không bị bệnh, bọn trẻ trâu thường rủ đi bắt chuột về làm món thịt hấp. Chuột đồng con nào con nấy béo mũm mĩm, nung núc những thịt. Chuột bắt về, làm lông, mổ bụng, rửa sạch rồi luộc lên. Bao giờ chuột chín, cắt lá chuối xanh rải một lớp xuống đất, xếp chuột luộc chín lên trên, rắc vừng rang, phủ thêm một lớp lá chuối khô, vần cối đá hay xếp gạch đè, ép cho hết nước. Xong, cầm cả con, xé từng miếng mà ăn. Thịt chuột đồng thơm có thêm mùi dầu vừng. Khi ăn vào vừa ngậy vừa thơm. Có nhiều đứa ăn khoẻ hết năm sáu con to cụ.
Mũi lão Vấn quả là thính. Thịt chuột vừa ép xong thì lão Vấn xuất hiện. Lão nhe hàm răng vàng khè, ám khói thuốc lào, thò tay nhón một con, mắt nhìn tôi bảo.
– Có thèm mày cũng đừng ăn. Thịt chuột nhiều đạm lắm đấy. Ăn vào rồi ra bố mày lại khổ. Mủ tanh và thối hơn hố xí.
Bệnh tôi, tôi biết. Tôi chỉ không hiểu vì sao lại mắc bệnh này. Mọi người bảo bệnh của tôi là do từ trong máu phá ra. Lão Vấn khăng khăng cam đoan rằng bệnh của tôi là do bố truyền sang. Có một vài người độc mồm độc miệng bảo do nhà tôi ăn ở mất vệ sinh, kiếp trước chắc làm điều gì thất đức. Giận nhất là mụ hàng cá cạnh nhà, chuyện nhà ai mụ cũng hay, việc nhà ai mụ cũng tường. Mụ tọc mạch thóc mách và chúa đưa chuyện, đã thế cái gì cũng có thể suy diễn ra được. Đi đến đâu mụ cũng rêu rao bệnh của bố con tôi bị phá ra từ lục phủ ngũ tạng, cái nhìn thấy chỉ là thứ ngoài da thôi. Mụ còn cam đoan, bệnh này bao giờ chạy lên mắt, nước mắt rơi lã chã là gần đất xa giời. Nghe nói bệnh đã vào đến lục phủ ngũ tạng thì sống chẳng được bao lâu, chỉ còn nước chờ chết. Lục phủ ngũ tạng là cái gì tôi đâu có biết. Tôi hỏi lão Vấn. Lão lừ mắt nhìn tôi rồi hằm hè.
– Nó là tim gan phổi phèo, các cơ quan nội tạng của cơ thể con người – Lão kéo áo chỉ tay vào bụng – Nó là những cái ở trong này này. Từ nay cấm chỉ được nghe con thối mồm đấy nói. Rõ chưa.
Nói xong lão bước đi miệng lủng bủng.
– Bệnh là bệnh, người là người, đời là đời. Đúng là quân hàng cá, chỉ được cái tài xiên thẹo mẹo dậu, suy diễn mất dậy.
Có một lần bố sai tôi vào làng mua dầu hoả về tối thắp đèn. Tôi vừa bước lên chiếc cầu vào làng thì bọn trẻ ở xóm giữa vây xung quanh, đứa nào đứa nấy lăm lăm cầm trên tay cục gạch. Chúng chỉ chỏ vào tôi ê a kêu hôi thối. Nhiều đứa còn chụm môi, nhọn mồm trông như cái loa, nhăn mặt, chun mũi, nhổ bọt. Mấy người lớn đi qua, ghé mắt vào nhìn, thì thầm vào tai nhau rồi quay ra nói gì với bọn nhóc trong xóm. Nghe người lớn nói, chúng tự nhiên dạt ra xa không dám đến gần. Bỗng một đứa hét toáng lên: Thằng hủi. Cả bọn nhao nhao lên kêu theo. Đúng lúc ấy lão Vấn từ đâu xuất hiện. Nghe nói thế, lão chửi.
– Đồ ngu. Có mắt mà như mù. Nói năng như con củ…
Chuyện xảy ra cách nay đã lâu rồi, phải bảy tám năm gì đó. Chiều hôm ấy bố đi cày về đến nhà. Mẹ sắp cơm gọi ba bốn lần nhưng bố kêu người mệt không muốn ăn. Nửa đêm tôi thấy mẹ lục cục dậy hì hụi dưới bếp hình như rang cái gì đấy cho bố lau người. Sáng ra, bố bảo mẹ đưa cho ông con dao. Khi bố cởi áo, tôi nhìn thấy cả người ông đỏ lựng như da người bị bỏng. Bố cầm con dao cạo trên da không khác gì người ta cạo lông lợn. Bố cạo đến bật máu. Ngày hôm sau, từ các mẩn đỏ trên người bố tự nhiên cứ mọc lên các nhọt. Lúc đầu các nhọt chỉ to bằng đầu đũa, sau rồi ngày càng to hơn, bằng cái bát chiết iêu mẹ vẫn hay dùng để đựng canh. Trong các nhọt chứa đầy mủ xanh. Mỗi khi nó vỡ ra, mủ máu chảy thành dòng nhờ nhờ như máu cá. Mùi tanh nồng nặc. Đi đến đâu, từ người bố toả ra mùi tanh tanh, chua chua, khăn khẳn. Bầy nhặng xanh lúc nào cũng bay theo bu xung quanh.
Bố bị bệnh năm trước thì năm sau đến tôi. Trong một lần tôi theo bố ra đồng dắt trâu non vực cày. Hôm ấy gió to lắm. Chiều về nhà tôi thấy người nổi mẩn ngứa. Lúc đầu chỉ như muỗi đốt. Bố vạch áo lên xem rồi bảo đó là tôi bị dị ứng thời tiết. Bố đem rang chiếc áo, xát lên các chỗ ngứa. Bố càng xát thì mẩn nổi càng to. Sang ngày hôm sau, những chỗ nổi mẩn đã thành các mụn nhọt to như quả ổi găng. Bên trong các nhọt đó cũng chứa đầy mủ xanh không khác gì của bố. Cũng từ đấy, mỗi khi tôi gặp gió là bệnh lại tái phát. Năm ấy tôi đang học lớp hai đành phải bỏ. Cứ mỗi khi tôi đến lớp, tất cả chúng bạn đều bỏ chạy ra ngoài. Ngay cô giáo, khi có tôi cô lại lấy chiếc khăn tay mùi xoa buộc che nửa mặt, thỉnh thoảng chạy ra ngoài, tháo khăn, ngửa cổ lên thở lấy thở để, hai tay vuốt ngực một thôi một hồi chán chê mới thôi. Nghe chuyện, bố tôi lúc đầu sôi lên sùng sục, đòi đến nhà trường làm cho ra môn ra khoai. Sau khi gặp cô giáo, thầy hiệu trưởng, chả biết thế nào bố tôi lặng lẽ gật đầu. Tối, khi mẹ sang nhà hàng xóm chơi, bố xoa xoa tay lên đầu tôi, nhẹ nhàng bảo ở nhà bố dạy chữ cho. Ngày trước, khi còn trong bộ đội bố vẫn đi dạy chữ cho bà con đồng bào suốt. Cứ yên tâm, bố có đủ chữ để dạy tôi nên người. Bố cười mà miệng cứ méo xệch, chả khác gì người mếu. Cả lớp, cả trường chả ai thích tôi. Đến như mẹ, tối tối cũng kiếm cớ sang nhà hàng xóm để tránh không phải chịu nỗi khổ của những gì từ người bố và tôi thoát ra. Ngôi nhà tôi giữa xóm mà cô độc như nhà ma, lạnh lẽo.
Vừa cắn miếng thịt nhai chưa kịp nuốt, nghe lão Vấn nói thế tôi nhè vội ra. Mỗi lần bị phát bệnh tôi rất sợ. Lúc mới phát, các mụn nhọt còn mẩn đỏ thì ngứa. Khi thành nhọt thì đau, nhức, buốt. Đầu lúc nào cũng ong ong như sắp vỡ. Khi các mụn nhọt vỡ ra thì tanh, mủ nhầy nhầy. Rồi những chỗ quần áo bị mủ giây vào, không kịp giặt, nó khô cứng, loang lổ phải ngâm nước cả ngày mới vò sạch. Thấy tôi không ăn, mấy đứa cũng bỏ luôn. Được thể, lão Vấn ngồi bệt xuống đất, hai chân khoanh bằng tròn, lấy tay kéo đống thịt vào lòng. Lão lắc lư đầu ra chiều đắc ý lắm. Chiếc quần đùi bộ đội rộng thùng thình, lão vén cao quá bẹn, hở tô hô, chấm cả xuống đất.
3 – Thời gian gần đây tối nào tôi ngủ cũng mơ thấy mẹ về. Mỗi đêm như thế tôi rất sợ khi tỉnh giấc. Những giấc mơ không trọn vẹn, sứt sẹo.
Một lần tôi mơ thấy mẹ đi xe máy về thăm bố và tôi. Chiếc xe mẹ đi đỏ lắm, đỏ như máu. Khi mẹ đi trên con đường ra đầm, chiếc xe nhảy chồm chồm như trâu lồng, lúc ẩn, lúc hiện trong bụi đất. Khi đến cạnh lều, thấy bố và tôi đang nằm ngủ thì tự nhiên mẹ bị ngã. Đàn trâu ở đâu lao đến dẫm lên. Tôi chạy ra thì mẹ vùng bỏ chạy, hai tay khua về sau rối rít. Mẹ xua tôi đừng đến gần. Con trâu vênh ngà của thằng Còi hất mẹ lên cao rồi lấy đầu đánh văng xuống đầm. Một đàn cá lao đến, chúng nhe những chiếc răng vừa to vừa dài như răng cưa cứ thế mà xâu xé. Sợ quá, tôi hét lên gọi bố. Đưa tay quờ quờ trên mặt chiếu, một lớp nhầy nhầy, tanh tanh dính vào tay. Tỉnh dậy, tôi đang nằm trong vũng mủ do các nhọt bọc vừa bị vỡ.
Lần khác, tôi vừa nằm thì đã mơ thấy mẹ. Bà đến đứng bên đầu giường của tôi. Từ trong các mụn nhọt, cả vốc giòi ngo ngoe bò ra. Con nào cũng béo nung núc, căng tròn to như ngón tay. Chúng bò ra rồi lại kéo nhau chui vào, hai hàm răng to đen như càng cua ngoạm từng miếng thịt của tôi mà ăn. Tôi đau quá, gọi mẹ cứu nhưng bà cứ đứng nhìn, mặc cho bầy giòi căng bụng máu, đầy một bụng thịt. Tôi càng giãy giụa thì bày giòi càng ra sức đục sâu vào người. Bố đến, trên tay cầm bó đuốc vẫn thường đi kiểm tra đầm hơ hơ lên trên. Từng con giòi căng lên rồi nổ lốp bốp. Có tiếng ai đó gọi mẹ ngoài cửa. Ngoái đầu nhìn ra ngoài. Có một người đàn ông lạ lắm lấy xe máy đưa mẹ đi. Bố nhìn theo, hai mắt héo hắt, mặt nhoè nhoẹt nước. Tôi vùng dậy, chạy ra ngoài vớ hòn gạch vỡ ném đuổi theo. Viên gạch bay vèo vèo, quay lại rơi xuống chân tôi đau điếng.
Bao nhiêu lần mơ là bấy nhiêu lần tôi đều thấy mẹ không bao giờ đến gần. Mẹ cứ đứng từ xa nhìn lại. Mẹ sợ những bọc mủ ở nhọt vỡ ra bắn sang người. Tôi nhiều khi cố quên nhưng hình như tôi càng nhớ thì lại càng nhớ.
Phải hôm hai bố con vỡ nhọt, quần áo bê bết những máu cùng mủ, mùi tanh sặc sụa, trùm kín cả ba gian nhà. Quần ái thay ra chưa kịp mang đi ngâm ruồi nhặng kéo về, bu kín chẳng khác gì rá đỗ bị đổ. Lúc cầm lên, cả đàn ruồi bay nhao nhao. Nước mủ bám ở chân, ở cánh văng ra, bắn sang mặt. Nếu không lau rửa ngay chúng đen lại không khác gì nốt cứt ruồi, tàn nhang. Phải những ngày như thế, bố và tôi phải kiêng gió nên chỉ còn mình mẹ. Mẹ thường lấy chiếc gậy dùng để phơi quần áo xêu lên mang ra cầu ao thả xuống nước. Bầy ruồi nhặng xoắn lại bay theo phía sau. Mặc dù nước mủ đã được ngâm nhưng khi vò giặt chúng dính như keo, trơn trơn, nhầy nhầy, nhơm nhớp. Sau, mẹ lấy chiéc khăn bông to làm khẩu trang, cuốn che mặt chỉ để hở hai con mắt.
Có một lần tôi ngồi câu bên bờ ao, khuất trong bụi chuối nên mẹ không nhìn thấy. Tôi thấy mẹ lấy cái gậy khoắng khoắng chiếc áo vào trong nước. Chẳng may nước bắn lên người, mẹ quăng gậy chạy, mặt tái xanh tái xám. Bộ quần áo của bố và tôi nổi lập lờ trên mặt nước. Rồi mẹ ngã. Ngã dúi ngã dụi vào bờ giậu dâm bụt ở ngõ. Biết mẹ sợ bệnh của bố và tôi nên tôi buồn lắm. Những hình ảnh ấy cứ hằn vào đầu tôi như đào ao xẻ rãnh.
Buồn nhưng tôi không dám nói với bố. Lão Vấn thường nói với tôi rằng, nếu có nhìn thấy gì, nghe thấy gì cũng đừng có toang toác. Ếch chết tại miệng, người chết tại mồm. Lão giơ nắm đấm lên nhứ nhứ ra điều không nghe thì liệu thần hồn. Nhưng mà lạ lắm, tối nào tôi mơ là y như rằng bố đều biết. Có một lần, sáng ra, đợi tôi ăn xong bát mỳ tôm, bố hỏi.
– Tối qua con lại nằm mơ à?
Nghe bố hỏi mà tôi không biết trả lời thế nào. Nếu nói thật, tôi sợ bố buồn. Trả lời không thì tôi lại là kẻ nói dối, điều mà bố rất ghét. Hình như bố hiểu. Bố dục tôi ăn xong mang bát đi rửa rồi đứng lên lấy bộ quần áo tự chế làm bằng vải áo mưa mặc vào xuống đầm.
Sau những lần mơ như thế, tôi rất buồn. Những giấc mơ tôi không hề mong đợi. Đêm mơ giấc mơ buồn nên ngày tôi hay nghĩ đến mẹ. Mỗi lần nghĩ đến là tôi lại giận. Có một lần lão Vấn bảo mẹ phải lên tỉnh làm để lấy tiền mua thuốc cho bố và tôi. Mặc dù tôi cố gắng tin điều lão Vấn nói là thật nhưng những việc làm của mẹ nó cứ ám ảnh, chập chờn, phảng phất trong đầu.
Để chữa bệnh cho bố và tôi, tài sản trong nhà có bao nhiêu cứ lần lượt được mẹ mang đi bán. Tôi nghe mẹ nói phải lên trên tỉnh lấy thuốc. Chỉ có điều lạ là nói thế nào bố cũng không chịu đi bệnh viện. Còn lão Vấn, khi bố hoặc tôi phát nhọt là y như rằng lão cứ lởn vởn quanh xóm, chẳng khác gì cú nhòm nhà bệnh. Những thang thuốc mẹ mang về lọ mọ sắc lên cho bố và tôi uống đắng kinh khủng. Mấy lần đầu, tôi uống chút một, chút một như uống nước. Khi vào đến cổ họng, đắng quá tôi lại nôn ra. Thấy thế, bố dậy. Mỗi lần uống thuốc, tôi thường phải lấy tay bóp mũi thật chặt, tợp một ngụm, nuốt ngay. Bố bảo, làm như thế, vị đắng không kịp ngấm vào cổ đã trôi xuống dạ dày rồi. Bố còn dặn, làm bất cứ cái gì như đắng cay, đau đớn nên làm thật nhanh. Càng nhanh càng tốt, nó không để lại cho cảm giác sợ hãi. Bố còn nói khích. Con bộ đội phải dũng cảm mới xứng con nhà lính chứ.
Bố kể. Ngày trước, khi bố còn ở bộ đội, có một chú trong tổ công tác bị rắn lục xanh cắn vào ngón tay. Nọc loại rắn này độc lắm, nếu không kịp chữa, nọc độc sẽ ngấm vào máu chỉ chớp mắt là chết. Chú ấy đặt ngón tay bị rắn cắn lên tảng đá, tay kia cầm con dao phát rừng, chặt một nhát. Ngón tay bị rắn cắn lìa ra, rơi xuống, các cơ trên ngón tay còn động đậy. Tất nhiên việc uống thuốc không thể bằng chú gì trong chuyện của bố tự chặt ngón tay được nhưng nó cũng luôn làm tôi nổi da gà. Tôi rất tin những điều bố nói.
Lần đầu, khi bố bị phát bệnh, nhọt bọc nổi to lắm ở ngay bả vai, cộm cả lưng áo. Một hôm, bố vén áo bảo tôi nhìn xem nó như thế nào. Sau này, đến khi tôi bị mắc bệnh, tôi biết, những lúc như thế nhức vô cùng. Chỗ mọc mụn vừa ngứa vừa đau, buốt đến tận óc. Mụn to như bát tô, đỏ tía, tím tái, phía đầu nhọt nhờ nhờ trắng, sờ tay vào có cảm giác bòng bọng nước. Bố bảo tôi lấy hai tay nặn thử xem có vỡ không. Vì da lưng dầy, lại sợ bố đau nên tôi nặn không được. Bố bảo tôi đưa cho ông con dao găm. Bố cầm con dao nói tôi đặt mũi dao vào chỗ đầu mụn nhọt. Khi tôi vừa buông tay ra, ông nhấn mũi dao cho nhọt vỡ. Từ trong nhọt, máu mủ chảy chan chứa khắp lưng. Bố thu hai tay trước ngực, cong người gồng lên ép cho mủ chảy ra rồi sai tôi lấy giẻ lau ngược từ dưới thắt lưng lên. Bố lấy cán dao đập vỡ vụn mấy viên thuốc rồi đưa cho tôi rắc lên trên miệng nhọt. Nhìn bố làm, tôi sợ nhắm tịt hai mắt.
Một lần khác, mụn nhọt mọc ở giữa lưng, gần chỗ cạp quần. Khi mụn làm mủ, bố bảo mẹ nặn cho đỡ nhức. Mẹ lấy hai tay bóp mạnh, nặn. Mẹ đang day day thì bất ngờ nhọt vỡ, phụt đầy mặt. Mẹ buông tay, lao ra cửa bỏ chạy, nôn thốc nôn tháo. Lão Vấn đi qua thấy thế vào làm giúp. Dường như lão Vấn không còn biết sợ là gì. Tay lão bóp, nặn, miệng thổi phù phù vào đó. Đôi tay lão ngoe ngoét, nhớp nháp máu, mủ. Lão túm luôn vạt áo đang mặc chùi tay rồi lại nặn tiếp. Xong, lão thò tay rút từ trong túi chai rượu đổ vào vết thương rửa. Khi băng xong, chỗ rượu còn lại lão ngửa cổ tu ừng ực. Những khi như thế, bố để mặc cho lão làm gì thì làm. Và lão làm xong cũng chẳng nói lấy nửa câu, tay cầm chai rượu, ngất ngưởng bước đi.
4 – Vì công việc đồng áng nên bao giờ cũng thế, đi làm đồng về mẹ mới đạp xe lên tỉnh để cắt thuốc. Mấy lần bố bảo mẹ không phải cắt thuốc cho ông, dành tiền mua cho tôi chữa trị thôi. Lẵng nhẵng việc mua bán thuốc thang chữa trị hàng năm trời mà đâu vẫn hoàn đấy. Tôi chả hiểu ông thày thuốc này tài giỏi đến đâu nhưng bắt mạch kê đơn chỉ nghe mẹ tôi kể chứ chưa bao giờ đến thăm khám hoặc bố và tôi phải lên hiệu thuốc. Sau mỗi lần đi lấy thuốc ở trên tỉnh về, tôi nghe mẹ nói, lần này thì bảo bệnh này, lần sau đã lại chuyển sang bệnh khác. Có một lần, mụ hàng cá nói xoe xoé giữa xóm, chữa bệnh mà không đúng căn nguyên chỉ tổ làm giàu cho mấy thằng lang băm. Có bao nhiêu của nả nó bòn rút cho bằng hết, tiền mất mà tật vẫn mang. Bệnh trong người phải chữa từ trong chữa đi, trị tận gốc, đằng này sợ đau, chữa chạy loanh quanh, chẳng khác gì trò cháo húp vòng quanh, chơi đĩ cả váy, chỉ vạ thêm ngứa.
Khổ nhất bệnh của bố và tôi là việc đi lại. Ở rịt trong nhà không sao, ra ngoài đường, chỉ cần sơ sẩy một chút không giữ gió là về nhà, thế nào cũng bị phát nhọt. Thuốc lúc đầu uống đắng là thế, sau này tôi uống như nước lã, chả biết đắng là gì nữa. Đến khi phải uống nhiều quá, tôi lại phát sợ. Chỉ cần ngửi thấy mùi thuốc là người tôi đã run, lông tay dựng ngược cả lên. Những lúc hai bố con bị bệnh, tôi để ý, bố cứ ngồi bó gối thở dài thườn thượt, cả ngày chả nói một câu.
Một thời gian sau tôi để ý thấy mẹ cách hai ba ngày lại đạp xe lên tỉnh nói lấy thuốc. Thuốc mẹ mang về sắc lên chỉ mình tôi uống chứ bố không động đến một giọt. Mỗi khi lên tỉnh lấy thuốc, mẹ tắm gội rồi mới đi chứ không như trước, tong tả quần xắn móng lợn, nếp áo nhăn nheo như lò so, tóc không kịp chải chỉ lấy tay vuốt vuốt rồi chít khăn lên. Bao giờ từ tỉnh về nét mặt mẹ cũng vui, không như ngày trước, lúc nào cũng nhăn nhó, khó chịu. Thỉnh thoảng mẹ còn mua cho tôi cái áo mới, khi chiếc bánh nướng to bự. Chỉ có bố, mỗi khi mẹ từ tỉnh về lại thở dài, lôi rượu ra uống. Nhiều hôm, bố gọi lão Vấn sang, hai người ngồi khề khà đến gần sáng.
Một chiều, khi mẹ ở tỉnh về gặp hai bố con đang ăn cơm. Chả biết mẹ mệt hay làm sao mà chạy vội vào bếp nôn. Bố bảo tôi ăn cho xong bữa rồi thu dọn để đi nghỉ sớm. Tối ấy bố đi đâu đến sáng mới về, người nồng nặc mùi rượu. Thỉnh thoảng lão Vấn qua nhà nhỏ to gì đó với bố. Tôi không nghe bố nói gì chỉ ậm ừ.
Rồi vào một đêm, khi ấy khuya lắm rồi tôi tỉnh giấc thì nghe có tiếng xì xào bên ngoài nhà.
– Tôi nghe chuyện này lâu rồi. Thôi thế cũng đỡ khổ cho cô. Cô cứ đi đi. Đừng lo lắng gì cho bố con tôi. Rồi đâu sẽ lại vào đấy. Tôi tự lo được.
Tôi không nghe mẹ nói gì chỉ nghe tiếng nấc ầng ậng nước. Tiếng điếu bát lọc sọc suốt đêm. Sau đêm ấy, tôi thấy bố và mẹ ít khi ngồi với nhau. Cũng từ hôm đó, tất cả quần áo của bố và tôi đều do ông giặt. Tháng sau, mờ sáng bố gọi tôi dậy rồi cùng lên huyện.
Buổi tối, sau khi ở toà án về, bố giục tôi đi ngủ, bảo mẹ ngồi lại. Nằm trong nhà, tôi nghe bố nói.
– Làm người đàn bà, xuất giá phúc phận nhà chồng. Số cô chẳng may vấp phải tôi nên khổ. Chuyện vợ chồng đầu ấp má kề. Nay chia tay nhau, tài sản không còn gì ngoài mấy gian nhà và mảnh vườn. Tôi đã bán để cô có tiền làm lại. Cô cứ giữ cả lấy, coi như sự đền bù những năm con gái. Tôi cũng đã nói với người ta, bao giờ cô đi thì người ta sẽ đến nhận.
Sáng hôm sau, bố thu dọn mấy bộ quần áo rồi dắt tôi ra căn lều ngoài đầm.
Việc trông nom ngoài đầm quả là vất vả. Nơi đồng không mông quạnh che chiều nào cũng gió. Những cơn gió hoang luồn lách ngang dọc, hở ở đâu một chút là chúng cũng có thể chui vào. Để tránh gió cho khỏi bị phát bệnh, bố tự thiết kế chiếc áo liền quần bằng vải mưa để mặc mỗi khi đi làm. Bố và lão Vấn hì hụi đo đo cắt cắt rồi hơ hơ trên lửa cho chúng dính vào nhau. Lão Vấn còn mang đến cả chiếc túi du lịch ba tầng từ thủa nảo thủa nào cậm cạch dùng mũi dao tách chỉ, tháo lấy dây khoá, cả ngày ngồi khâu. Hôm làm xong, bố và lão Vấn xem ra sướng lắm. Mỗi khi bố mặc trông chẳng khác gì ông thợ lặn, từ chân lên đến đầu kín như bưng chỉ thò mỗi hai con mắt. Khi ông từ trong áo mưa bước ra người ướt đẫm mồ hôi, chiếc áo sâm sấp nước.
Thực lòng mà nói, tôi không thích lão Vấn. Lão như thằng mật thám bám theo tôi mà theo dõi. Động cái là lão chửi, không như bố, lúc nào cũng nhẹ nhàng mặc dù ông rất nghiêm khắc với những việc tôi làm. Ghét lão nhưng tôi lại thấy lão gần gũi chứ không sợ. Những lần lão giúp bố nặn nhọt, băng bó vết thương, những hôm lão chửi ầm ầm bênh tôi khi có ai đó nói này nói nọ, nhất là những lúc lão phởn chí bảo chúng tôi ngồi quây trong vườn chuối để lão cắt tóc thì sao tôi thấy lão hiền thế, tốt thế. Ghét lão nhưng một ngày không nhìn thấy tôi cũng nhơ nhớ. Có một điều mà tôi không hiểu nổi, lão rất ngại bố tôi. Nhiều khi lão ngồi một mình bên bờ đầm uống rượu, thấy bố ra, lão giấu vội chiếc chai vào sau lưng áo. Bị bố phát hiện, lão ngửa cổ cười cười trông cứ tồi tội, chả khác gì bọn tôi bị bắt lỗi quả tang. Một đôi lần, khi bố nói lão cũng có ý định cự nự lại nhưng rồi thôi ngay, cun cút làm theo.
Thi thoảng vào các tối, hôm nào trời lặng gió, bố và tôi ra ngồi trên bờ đầm. Từ dưới đầm, tiếng cá đớp chân bèo tẹp tẹp. Giữa đầm, có con cá động hớn nhảy lũm tũm. Sau đấy là tiếng đớp nước uôm uổm. Bố bảo, những con cá lúc nào cũng luôn mồm lép nhép đớp chân bèo chỉ là loài cá nhỏ như mương, rô, giếc, cá cờ. Loài cá nhỏ, thịt không đáng làm mắm, chẳng mấy ai để ý nên lúc nào cũng thích đớp để ra điều có tôi ở đây. Vênh vang là thế nhưng động rạng một tý là chúng chuồn sạch, không mọc mũi sủi tăm. Bao giờ yên hàn lại vênh vang lép bép chân bèo. Tiếng đớp nước uôm uổm là bầy cá chuối. Loại này là cá ăn thịt. Chúng bơi rất nhanh và săn mồi cũng rất giỏi. Tối tối, bầy cóc nhái hay rủ nhau xuống đầm làm tình, những con cá chuối đã đón sẵn. Chỉ bằng một động tác lao mình từ dưới lên là chúng đã có thể tóm gọn những chú nhái đang say sưa giỡn nhau trên mặt nước. Tiếng rơi lũm tũm là bầy cá rói, cá trôi. Chúng nhảy tránh những cú lao mình của bầy chuối săn mồi và cũng có ý nói rằng, trên thế gian này còn có bầy loài như chúng tôi nữa. Loại cá này thường ăn ở tầng nước giữa. Còn một loại, lặng lẽ tầng đáy là những con cá trê, cá bò. Tầng đáy thường là loài cá da trơn. Loại này không mấy khi tự nổi lên tầng trên để ăn. Chúng cứ lặng lẽ săn mồi nơi hun hút bóng tối. Tuy chúng lặng lẽ thế nhưng giá trị dinh dưỡng và thịt của chúng ngon hơn những loại ăn nổi nhiều lần. Có một loại, vừa ăn tầng trên, vừa ở tầng giữa và cũng kiếm sống tầng đáy. Đó là những loài như trắm, chép, rô phi. Loài cá này tầng nào cũng có thể sống được. Bố bảo, ở đời cũng thế.
Chiều nay, bố và lão Vấn rủ nhau ra đầm đánh cá. Cả một buổi chiều cá đánh được đầy ự mấy chiếc thúng. Đánh được đến đâu bố bán hết cho mấy người đi xe máy đến mua. Bố mang số tiền bán cá được giao cả cho lão Vấn. Bố vừa đưa tiền, lão Vấn dằn cái chén uống nước xuống mặt chõng.
– Anh khinh tôi vừa vừa thôi. Tôi cầm tiền đi mua quan tài à.
– Thì chú cũng phải nộp sản cho hợp tác xã chứ. Họ có cho chú thả không đâu.
– Tôi đếch trả. Tiền cho thuê đầm nộp cho họ cũng chưa đủ bữa tiếp khách. Tôi không trả cũng chả có thằng đếch nào dám đến hạch sách. Tôi đấu chứ anh đấu đâu mà sợ.
Nói đến đây lão chợt nhận ra có tôi liền thôi. Chắc bố cũng nghĩ như lão nên không nói thêm gì nữa. Lão đi lại góc lều lôi bình rượu ra uống. Khi lão nâng chiếc bình rót rượu ra bát, tôi để ý thấy tay trái của lão có ngón bị cụt. Phát hiện thấy tôi cứ nhìn chằm chằm vào bàn tay có ngón cụt, lão trợn mắt trộ.
– Nhìn, nhìn cái gì. Có lên chõng ngủ đi không? Người lớn nói chuyện ngồi đấy mà hóng hớt.
Tôi điên quá, lần tay xuống cạp quần lấy chiếc súng cao su, bí mật nhặt mấy viên sỏi giấu vào túi rồi ra khỏi lều. Mấy con chó ngồi chầu hẫu ngoài cửa chờ cho ăn. Tiếng dế ri ri kêu bên bờ đầm như tiếng màng ai thả trên cao. Tìm chỗ khuất gió tôi ngồi. Tự nhiên tôi lại nhớ mẹ. Phía xa xa kia, nơi có những vệt sáng vàng vọt có một lần bố bảo đó là tỉnh đấy. Nơi ấy có mẹ tôi đang ở.
5 – Sáng hôm sau, khi trời còn sớm, bố gọi tôi dậy bảo đi cùng lão Vấn lên tỉnh. Lão Vấn hôm nay ăn mặc rất bảnh chứ không như mọi ngày, bộ quần áo quân phục còn nguyên nếp gấp, đầu đội mũ cối, chân đi giầy đen, tóc gọn gàng chứ không bù xù rối mù hôi hôi mùi nước đầm. Bộ râu ria mọi ngày xồm xoàm được lão cạo sạch trông trẻ và trắng trẻo. Thấy tôi nhìn chăm chú, lão nháy nháy mắt rồi cười thật hiền.
Lão cứ thủng thẳng đạp, thi thoảng lại bấm chuông kêu leng keng. Vừa đạp xe, lão vừa nói chuyện, giọng không bẳn gắt, cắm cẳn như mọi ngày mà thân thiện và gần gũi. Lão kể những chuyện gỉ chuyện gì tôi nghe tiếng được tiếng mất, chả rõ, chỉ láng máng. Hình như lão đang kể những chuyện ngày bằng tuổi tôi thì phải. Những năm tháng tuổi thơ vất vả, nhọc nhằn và buồn tủi phải đi ở bên nhà ông chú vì cha mẹ lão mất sớm.
Lên đến tỉnh đã thấy cơ man nào là người, là xe. Tôi và lão Vấn như lạc lõng giữa dòng người sang trọng, sạch sẽ và thơm tho. Bám dọc theo hai bên đường là những căn nhà cao tầng cùng hàng hoá xếp đầy ních từ ngoài vào trong. Mải nhìn ngắm mà mấy lần tôi bị rơi cả mũ. Tôi ước gì bố và tôi có được ngôi nhà như thế để ở, không phải chui rúc trong căn lều ngoài đầm đêm đêm lũ chuột đuổi nhau lao cả qua người, mỗi khi có mưa lại phải bê xô, xếp chậu hứng giột, nghe tiếng rơi long bong cả đêm không tài nào ngủ được. Tôi chợt nghĩ, mẹ ở trên này sung sướng làm sao còn nhớ đến tôi nữa. Lão Vấn vẫn thường nói với tôi, con người gặp sướng hay quên, thấy buồn hay nhớ, thấy khổ hay nản, thấy nạn hay tránh. Tránh được buồn khổ ngày nào là người ta sung sướng ngày đó. Không biết mẹ tôi có như lão Vấn nói không?
Suốt cả buổi sáng tôi ngồi sau xe cùng lão Vấn đạp lòng vòng đi hết phố này đến phố khác. Thỉnh thoảng lão dừng xe, bảo tôi đứng trông để lão vào hỏi thăm. Chả biết lão hỏi gì nhưng ra là lão dục tôi lên xe nhanh nhanh rồi lại đạp đi. Trưa, lão Vấn dẫn tôi vào vườn hoa ngủ. Lão chỉ tôi cái ghế hoa, còn lão, ngả xe ra vệ cỏ, gối đầu lên bánh sau, rồi lấy khoá dây, ngoặc qua cổ, ngoắc vào khung, úp chiếc mũ lên mặt đã thấy ngáy. Tự nhiên tôi lại nhớ đến bố. Không biết bây giờ bố đang làm gì ngoài đầm. Ngoái đầu nhìn lão Vấn đang ngủ. Lão nằm ngủ mà chân co chân duỗi, chẳng khác gì người ta đang bước đi.
Khi tôi tỉnh lại đã thấy lão Vấn ngồi cạnh, tay cầm chiếc mũ phe phẩy quạt. Lão bảo ở lại trông xe rồi cắt đường đi sang ngôi nhà đối diện có hai cây dừa trước cửa, cánh cổng sắt sơn xanh chỉ để he hé một lối đi nhỏ cho người ra vào. Phía trên bờ tường, các dây leo bám kín vào các cọc rào. Trên ban công các tầng, các loại cây cảnh che gần kín hết mặt tiền. Phía trên cao, tấm biển hiệu được trang trí bắt mắt chạy dài suốt từ tầng ba xuống đến tầng hai. Đến trước cửa, tôi để ý thấy lão Vấn ngập ngừng một lát rồi mới bước vào và mất hút sau bóng cây cảnh bầy biện bên ngoài.
Lão Vấn đi rồi, ngồi đợi ở ghế, tự nhiên tôi thấy sợ. Có mấy thanh niên người gầy nhẳng, kẻ cắt tóc ngắn, người để tóc dài, buộc túm sau gáy, túm tụm bên gốc cây làm cái gì giấu giấu diếm diếm, mắt lấm la lấm lét. Khi qua chỗ tôi họ lượn lờ nhìn chằm chằm, đôi mắt tái dại.
Kỳ cạch dắt xe qua đường, tôi len lén dựng xe vào bên ngoài bờ rào phía sườn của ngôi nhà. Ghé mắt nhìn qua hàng cọc bê tông và các khóm cây. Lão Vấn ngồi bên chiếc bàn kê ở ngay dưới gốc cây dừa. Lão chờ ai mà ra dáng thấp thỏm, nhấp nha nhấp nhổm ngọ ngoạy trên ghế. Rồi có người đàn bà đi ra. Ôi, mẹ tôi. Bà mặc váy ngắn hở cả đùi. Chiếc áo cổ rộng trễ xuống ngang ngực. Tôi giơ tay dụi mắt. Đúng là mẹ tôi rồi, chỉ khác mắt mẹ kẻ xanh xanh, đo đỏ. Mẹ còn tô cả móng chân, móng tay. Trông mẹ vẫn trẻ như ngày trước và có phần còn xinh hơn, trắng trẻo, trưng diện. Tôi nhao người lên định chạy vào thì đầu va phải khung xe. Tôi như thế này liệu mẹ có nhận ra không. Tại sao lão Vấn vào gặp mẹ mà không cho tôi biết. Hay là lão cũng ngại vì tôi ăn mặc rách rưới và đen đúa, bẩn thỉu. Tôi lại nhớ những lần bố và tôi bị bệnh, mẹ lấy cây gậy khều khều quần áo rồi mang ra ao thả, cái hôm mẹ giặt bị nước bắn lên người bỏ chạy, ngã dúi ngã dụi vào bờ dậu dâm bụt. Tôi vào, mẹ lại bỏ chạy thì đến bao giờ mới được gặp. Thôi, tôi cứ nhìn mẹ qua hàng rào cũng được.
Vừa trông thấy lão Vấn mẹ tôi đã khóc. Lão Vấn cứ ngồi trên ghế để mẹ tôi khóc một lúc mới bảo. Giọng lão nhẹ nhàng chứ không gắt gỏng như mọi ngày.
– Cô chuyển chỗ để tôi phải tìm suốt từ sáng đến giờ. Thôi, khóc lóc cái gì. Cô làm đây còn con bé đâu?
Tôi không ngờ mẹ lại khổ đến thế. Ngồi ngoài nghe mà tôi thương mẹ vô cùng. Mẹ còn khổ hơn cả bố và tôi những ngày bị bệnh. Người chồng mới đã bỏ vì mẹ không sinh cho ông ta con trai. Ông ta cũng không cho mẹ được nuôi con vì mẹ không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Vì mẹ bỏ bố và tôi đi do bệnh tật nên cũng không dám về quê sợ làng xóm chê cười. Mẹ phải đi làm trong nhà hàng, khách sạn để kiếm sống. Mẹ bảo cũng muốn về nhưng vì đã trót nhúng tay vào chàm rồi. Mẹ sợ mọi người trong xóm ngoài làng biết chuyện thì lại càng thêm khổ. Mẹ không muốn bố và tôi khổ thêm nữa. Mẹ bảo lão Vấn đừng nói chuyện này cho bố và tôi biết. Từng câu mẹ nói có tiếng nấc ầng ậng nước xen vào ngắt quãng.
Lão Vấn ngồi nghe nét mặt nhăn lại, đỏ như người đi nắng. Bàn tay của lão nắm lấy chỗ tay vịn ghế. Mẹ tôi nói xong một lúc sau lão mới lên tiếng, từng câu rành rọt, dứt khoát, sắc như dao. Giọng lão nghe chẳng khác gì hôm bênh tôi, chửi bọn nhóc và người xóm trong lần đi mua dầu trên cầu vào làng.
– Cô về. Theo tôi về ngay hôm nay. Về.
– Em về thì ở đâu bây giờ – Tiếng mẹ nhoè trong tiếng nấc- Nhà không có, gia đình thì không. Ai chứa em. Đến lúc ấy em còn biết đi đâu.
– Về nhà cô chứ về đâu. Tiền mua nhà ngày ấy là tiền của tôi. Hai người không ở được với nhau, tôi phải bỏ tiền nhờ người khác mua, để giữ lại. Bây giờ cô về, dọn về đấy mà ở, đưa cả bố con nó về ở nữa là xong. Tôi lấy lại cái lều ngoài đầm. Nhà tôi, tôi ở, không phải trông nhà cho cô nữa – Giọng lão nhấm nhẳng, cáu gắt như mọi ngày. Những lúc như thế này là lão hay nổi xung lắm.
Sợ lão ra thấy tôi nấp bên ngoài nghe lại nổi cáu, thậm chí cho cái bạt tai cũng chưa biết chừng, tôi len lén dắt xe về chỗ cũ, ngồi xuống ghế đá, giả vờ thiu thiu ngủ. Một lát sau tôi nghe tiếng chân bậm bịch đi ra, tiếng lão nói lủng bủng cái gì đó. Gần như lão giằng cái xe, lôi xềnh xệch nó đi, ghệ mông lên yên không ngoái đầu lại, giọng gắt gỏng như ra lệnh.
– Lên. Đúng là đồ ngu.
Chắc lão cáu điều gì đấy, tôi nem nép ngồi lên xe. Khi tôi ngồi xong lão quay lại nói nhỏ nhẹ, cứ như không có chuyện gì xảy ra.
– Bây giờ chú cháu ta đi mua đồ rồi về. Vào cửa hàng thích mua gì thì nói, đừng ngại. Thích gì chú mua cho cái đó.
Tối sầm tối sà tôi và lão mới về đến lều. Căn lều không thắp đèn nhờ nhờ sáng do không gian của đầm, của đồng và chút ánh sáng yếu ớt rớt xuống qua lỗ chái. Bố tôi không biết đi đâu, căn lều vốn đã trống trải, không có người nó càng lạnh lẽo. Đẩy xe vào trong, lão Vấn sai tôi đi lấy cây đuốc rồi cùng lão chạy ra ngoài.
Bố tôi người bê bết máu, nằm vắt ngang người trên bờ đầm, những cái sẹo do các lần nhọt bầm đỏ hở tô hô trong chỗ áo rách. Bốn xung quanh chỗ nằm, bùn đất, cỏ rác, bèo tây và những cành chà rào ngổn ngang. Lão Vấn không hỏi, lặng lẽ bế xốc bố lên mang về lều. Tôi lập cập cầm đuốc chạy theo sau. Trong khi lão Vấn và tôi đi tỉnh, chập tối có một toán người mang lưới đến đánh cá ở đầm. Bố tôi ra nói và thế là họ xúm vào, kẻ dùng gậy, người dùng dây thừng đánh. Họ là ai bố tôi không nói. Lão Vấn cật vấn thế nào bố cũng lắc đầu. Băng bó, lau chùi vết thương cho bố tôi xong, lão Vấn rầm rầm đi vào làng.
6 – Bố tôi lại phát bệnh. Các mụn bọc lần này xem ra to hơn các lần trước. Chiếc áo bố mặc cộc tớn, vạt buông cách người bung biêng, sổ xủ xuê. Trông bố không khác gì người dị dạng, u đằng trước, ùng đằng sau. Mỗi bước đi người ông xô lệch, nhúc nhắc từng bước một. Nhìn nét mặt nhăn nhó tôi đoán, chắc bố đau lắm. Những ngày đầu, mụn bọc còn nhỏ có thể mặc áo, sau nó to quá khổ, bố đành phải đánh trần, khoác bên ngoài tấm vải màn che bụi và ruồi. Những mụn bọc lần này không như những lần trước. Trông chúng đo đỏ, hồng hồng, tim tím, xam xám. Khi bố bảo tôi sờ xem chúng đã làm mủ mềm chưa hay vẫn còn cứng. Tôi có cảm giác các bọc máu, mủ bên trong đang chạy xoắn vòng tròn như xoáy nước chỗ lỗ thoát cống những hôm có mưa. Khắp người chỗ nào cũng mụn nên bố không thể nằm mà chỉ có thể ngồi, hai bờ vai tựa vào vách đỏ lên, cứng lại, đóng chai rồi bong ra như vẩy cá. Hôm mụ buôn cá ra đầm, biết thế, không nói xoe xoé mà nhễu ra, nét mặt ươn ươn như cá chết, chả biết là thương, là tiếc hay chia sẻ.
Từ hôm bố phát bệnh, ngày nào lão Vấn cũng qua, tờ mờ sáng đã thấy đến cổng quát tháo, chửi mắng bầy chó nhặng xị. Qua mấy hôm, chắc bầy chó đã quen mặt lão nên không sủa ầm ĩ mà chỉ gậm gừ ra điều nhà có chủ. Lão đến lo cơm nước, giặt giũ, thu dọn căn lều không khác gì bố tôi vẫn làm. Hết việc, lão lại vào ngồi nói chuyện với bố những gì tôi nghe chả hiểu. Trong các câu chuyện, họ hay nhắc đến vùng đất có tên A Sầu, A Lưới nào đấy. Tôi đoán hai người nói về một nơi nào xa lắm, nơi ấy chắc lão Vấn và bố ngày xưa đã từng ở những năm quân ngũ. Thỉnh thoảng họ lại nhắc đến tên một ai đó, lạ hoắc. Hết chuyện, bố và lão Vấn ngồi mồi thuốc lào cho nhau cùng hút ra chiều rất thân thiện.
Các nhọt bọc ngày càng ngày to ra và òng ọng nước. Chắc bố mệt lắm, tiếng thở nặng nhọc. Sau khi để lão Vấn dùng dao chích các nhọt bọc và làm vệ sinh xong, bố hẩy hẩy tay ra ý bảo tôi và lão Vấn ra ngoài. Lão Vấn cầm tay lôi tôi ra bờ đầm. Gió hiu hiu thổi. Những tàu lá chuối cong ưỡn ẹo đan vào nhau che kín mặt đất. Tự nhiên tôi đưa tay xuống cạp quần rút chiếc súng cao su. Lão Vấn đưa tay cầm lấy, nhặt viên sỏi, đặt vào miếng da làm kẹp đạn và kéo. Tạch. Chiu. Viên sỏi bay bắn rụng luôn đầu con chuồn chuồn ngô đang đậu trên ngọn cành rào rấp chống trộm dưới đầm. Trả súng lại cho tôi, lão nói.
– Tiên sư anh. Anh định hạ gục tôi chứ gì.
Quàng tay qua vai, lão vỗ nhè nhẹ bảo tôi.
– Tổ đầm của chúng ta bây giờ lại vẫn có ba người. Hai đồng chí bố và một đồng chí con cùng cây súng cao su. Cuộc chiến của chúng ta bây giờ là đầm cá và các nhọt bọc.
Nói xong lão cười khà khà, các nếp nhăn trên trán co dúm lại.
Đớp dưới chân đám bèo sen ven bờ đầm vẫn là mấy con cá lẹp nghe lép nha lép nhép. Giữa đầm, bầy cá chép, cá mè, cá trôi nổi thành từng đàn hớp hớp. Thi thoảng chúng lại động hớn nhảy vọt lên rồi rơi xuống lũm tũm. Góc xa phía cuối đầm, tiếng đớp uôm uổm của bầy cá trắm phàm ăn tranh nhau. Từ dưới lòng sâu, những vệt tăm nhỏ ly ti kéo dài nổi lên trên mặt nước. Lão Vấn đứng lên, bảo về thu dọn che chắn lều. Hôm nay trở trời, oi thế này và cá nổi lên nhiều thế kia, đêm thế nào cũng có mưa rào to. Khi tôi và lão Vấn vào trong lều thì hai tay bố tôi đã buông xõng xuống đất. Lão Vấn nhào đến lay, gọi. Lão phủ phục xuống bên chõng, nước mắt lã chã rơi ướt cả ngực áo của bố. Bố ơi! Sao bố lại bắt con ra ngoài lều rồi chết. Không còn bố con biết sống với ai. Tôi gào lên, mặc lão Vấn ra rả nói bên tai.
Cơn mưa tầm tã ba ngày liền. Nước ngập mênh mông. Những đụn rạ nổi lều bều, gió đánh giạt vào thành từng mảng bám dọc theo bờ đường ra đầm. Tiếng gió hun hút luồn qua các ống tre gác mái lều, nâng tấm giấy dầu lạch phạch. Trong góc lều, hai chiếc thùng gánh nước lục cục tiếng ếch nhảy. Kế đó là chiếc rổ đựng cá rô. Tiếng mang cá róc vào các nan rổ lách nhách cùng tiếng đập đuôi lép nhép. Mặt đầm trông sáng, trong và sạch sẽ.
Tôi nhìn về phía con đường dẫn ra đầm. Lão Vấn quần xắn móng lợn đang lội bì bõm. Không có lão ở cùng, một mình trong lều tôi cứ thấy dờn dợn. Từ xa, lão đã nói ầm ầm.
– Về, về ngay. Về mà dọn nhà.
– Dọn nhà?
Tim tôi đập thình thịch.
– Phải.
Lão Vấn nhìn tôi, mắt sáng lấp lánh. Tôi nhảy lên ôm lấy cổ lão. Trời ơi, lão Vấn yêu quý của tôi. Sao hôm nay người lão, cổ lão, đầu tóc lão lại thơm thế, chả thấy hôi hám gì cả.
Lão nhệch miệng ra cười nhưng mắt lại rơm rớm./.
SÓNG VẪN VẨN VƠ TRÔI
1
Cả tháng nay trời rét đậm rét hại lại cộng thêm có mưa phùn, con đường vào làng lúc nào cũng nhem nhép, nhem nhép. Mấy chân ruộng mới cấy, cây lúa non chết rụi. Trâu bò cũng chẳng nhà nào dám đưa ra ngoài đồng chăn dắt. Mấy nhà chủ quan khi trời lạnh vẫn dắt ra đồng chăn thả, tối về có nhiều con bị cước chân, lạnh, lăn quay ra chết cóng trong chuồng. Đàn trâu trong làng cả tháng phải nhốt, mùi phân trâu bò lâu ngày không dọn phả ra hôi hôi, khăm khắm, trùm lên các ngõ ngách. Tiếng lũ trẻ quát tháo inh ỏi mỗi chiều xua trâu cũng vắng. Tiếng lộc cộc gõ móng của bầy trâu đủng đỉnh trên đường làng cũng không còn. Tiếng xoe xoé của mấy bà mắng con mỗi sáng, mỗi chiều vì tội lười nhác không đưa trâu ra đồng chăn cũng vãn. Chỉ còn tiếng gió bấc rít từng hồi trên ngọn tre hay dẫy bạch đàn dọc theo con đường vào làng là mỗi ngày một nặng. Chiếc cầu xi măng sơn đen đầu làng cũng không còn phải chứng kiến cảnh lũ trẻ khi đưa trâu ra đồng chăn thả hay lúc lùa trâu về đứng giữa cầu, vạch quần đái tồ tồ làm mưa xuống con sông nữa.
Trời rét quá, mấy gia đình thuyền chài cũng kéo nhau đùm úm vào trong con ngòi nhỏ chọn nơi khuất gió tránh rét. Nhà nào nhà nấy lấy mảnh áo mưa rách trùm lên che chắn cửa thuyền. Trông xa, những ngôi nhà thuyền tùm hụp như chiếc áo, vá chằng vá đụp, nham nhở với các mảng màu xanh xanh, đo đỏ, nâu nâu. Mấy nhà bên con ngòi thỉnh thoảng lại ra bên búi tre ngó nghiêng, trông mấy cây trái trong vườn.
Rét thế nhưng lão Kiếm không cho vợ con đưa thuyền vào chỗ con ngòi nhỏ tránh rét mà vẫn đậu thuyền ngoài bến sông. Lão cũng không cho vợ con lấy áo mưa che gió như các nhà khác. Sáng dậy, lão vẫn một mình một ấm chè, ôm khư khư cái điếu bát. Thỉnh thoảng lão lại buông câu chửi thề. Biết tính lão thế, bà Tèo cũng mặc. Nói ra vạ rách việc. Từ ngày về ở với lão đến giờ, bà biết. Ý lão thế nào là phải đúng như thế. Nếu làm sai, lão chửi cho đến ủng óc, thối tai. Ngồi uống nước lắm, lão lại lò dò ra mui thuyền, vạch quần đái. Lão nghiêng mặt nhìn vào trong làng, tai vểnh lên nghe tiếng nước chảy xuống bong bong. Con khoang nằm ở mui thuyền, mỗi lần lão ra lại rời ổ. Mỗi lần như thế, nó vưỡn mình kéo xác theo cái thói mỏi mệt rồi ngước hai mắt lên nhìn. Xong, nó nem nép mon men ra lép tép uống nước trong lòng khoang. Khi lão Kiếm chui vào nhà thuyền, con khoang lại lặng lẽ quay vào cái ổ ở đầu mũi, nằm ghếch mõm ra ngoài, lim dim mắt.
Sáng nay, ngoài trời lạnh đến thấu da thấu thịt, lão Kiếm vẫn đánh trần, mặc chiếc quần đùi, ngồi trong lòng thuyền, đầu cúi xuống kẹp giữa hai gối kỳ cạch giũa những chiếc lưỡi câu. Giũa xong chiếc lưỡi câu nào, lão mắc trả nó vào trong kẹp tre. Thỉnh thoảng lão ngoái đầu nhìn ra ngoài sông miệng lủng bủng chửi.
– Tổ sư nó. Mưa dầm mưa dề lại rét mướt kéo dài thế này lấy cứt mà ăn à.
Lão chửi trời, chửi đất hay chửi ai. Chịu. Chửi ai chỉ có bản thân lão biết. Bà Tèo ngồi nép bên trong phên nứa chắn cuối thuyền cứ cặm cụi vá lưới, tịnh không dám lên tiếng. Nghe lão chửi luôn mồm bà cũng khó chịu nhưng mặc. Giây lời với lão lúc này chỉ tổ gặp vạ. Lão muốn chửi ai thì chửi. Miệng lão chửi thì tai lão nghe. Từ ngày gắn cuộc đời mình với lão, bà đã quen với chuyện này. Bà Tèo quen chuyện lão chửi như người ta quen khổ, quen đau. Mặc dù cái đau, cái khổ luôn làm người ta khó chịu. Miệng lão chửi nhưng trong đầu lão lại đang nghĩ cách bắt bằng được con cá măng phá lưới của lão ở khúc Rủ. Đã không bắt được nó, lão còn bị nó hất xuống sông. Lưới không bắt được thì lão dùng câu. Đời lão chưa có con cá nào thoát khỏi tay khi lão đã quyết bắt. Lão tin vào việc đó như tin chính việc đang ngồi giũa lưỡi câu vậy. Việc lão muốn dùng lưỡi câu để bắt con cá măng này là lão muốn con cá phải chịu đau đớn đến tận cùng như khi lão bị con cá chơi khăm, hất xuống sông vậy. Lão muốn con cá phải chịu cái đau cho đến khi chết. Còn nếu lão thích bắt nó thì chỉ cần lão xách cái đinh ba, lặn xuống, vùi mình trong bùn dưới lòng sông, đợi cho con cá đến gần, lao mũi lao là xong. Nhưng nếu làm thế thì con cá không biết được như thế nào là sự đau đớn. Lão vẫn nghĩ. Chỉ có sự đau đớn đến tận cùng thì mới thấy giá trị của sự sống.
Chiếc thuyền câu nhẹ nhàng lướt đến, nép sát vào cạnh thuyền nhà lão Kiếm rồi dừng lại. Do dừng đột ngột, chiếc thuyền câu bị lớp sóng phía sau trườn đến, nâng phía đuôi hơi vểnh lên rồi mới hạ xuống. Nó cứ dập dềnh trên sóng như thế. Người ngồi trên thuyền câu đưa tay bám hờ vào chiếc nhà thuyền của lão Kiếm, đỡ cho nó không va quệt vào mạn thuyền. Chẳng cần nhìn ra ngoài, lão Kiếm cũng biết đó là thuyền câu của lão Được. Lão Kiếm tay vẫn giũa lưỡi câu, miệng đánh tiếng ra ngoài.
– Lão đi đâu về sớm mấy. Lên làm chén rượu chứ?
– Hầy. Đi thả mẻ lưới kiếm con cá uống rượu cho đỡ buồn. Mưa rét nên chán lắm. Chỉ được mấy con cá mù. Thấy lão có nhà ghé qua hỏi thăm tý thôi. Trời lạnh thế này, chắc lão không phải ngâm xác nữa hả?
– Mưa nắng thế này, chắc năm nay đói rã mép ra mất.
– Lão lo xa quá. Còn nước lo gì không có cá. Khúc này hết cá ta đi khúc khác.
Bà Tèo ngồi cuối thuyền, tay vẫn đang dùng ghim vá mấy đoạn lưới bị rách. Hôm qua lão Kiếm mang lưới đi thả ở khúc Rủ. Lưới năm xen hai, loại lưới dùng để đánh bắt cá chép, trôi, rô, diếc. Không ngờ gặp con cá măng, cỡ phải mười tám hai mươi cân vào lưới, phá rách. Tiếc mà chịu. Đã không bắt được lại bị nó làm rách lưới, tiếc của giời, lão Kiếm lủng bủng chửi suốt buổi. Ngồi vá lưới, nghe chuyện của chồng và lão Được, bà Tèo nối lời.
– Các ông bảo đi đâu? Đi đâu chả sông này, nước này. Liệu có đi mãi được không?
Không để bà Tèo nói hết câu, lão Kiếm gầm gừ trong họng, giọng cáu cẳn.
– Biết cái gì mà chõ mồm vào. Lại thấy mấy nhà trên bờ có ruộng xa đồng gần tớn mắt lên. Cứ tưởng lên bờ là có nhà ngói cây mít ngay đấy. Thích. Cứ lên đi. Rồi cháo không có mà húp.
– Ơ hay hai cái ông bà này! Rõ là chán! – Lão Được vội lên tiếng – Động tý cứ ầm ầm lên là làm sao. Thôi. Tôi về đây. Tối lão sang tôi làm chén rượu nhạt nhé.
Như tiện tay, lão Được quẳng lên sạp con cá rói còn giẫy đành đạch.
– Trưa, nói mụ vợ nấu canh chua mà ăn. Cá rói khúc Trầm đấy.
Dứt lời, lão Được vung tay, nhấn sâu hai cái cặp tay chèo về phía trước, kéo mạnh xuống phía đuôi thuyền. Chiếc thuyền hơi vểnh đầu lên rồi nhẹ nhàng lướt đi. Trông hai tay lão Được bơi thuyền khoắng khoắng hai bên mạn chẳng khác gì mấy chị trong gánh hát chèo làng Đông thỉnh thoảng lại về diễn ở thôn Nang. Chèo được một quãng, lão Được lại gõ cặp tay chèo vào thành thuyền. Tiếng cặp tay chèo đập vào chỗ cạp trên của con thuyền câu lạch cạch, lạch cạch. Tiếng gõ mạn xua cá mỗi khi đi thả lưới. Phía sau chiếc thuyền câu, vệt sóng tõe sang hai bên hình rẻ quạt, táp nước vào bờ nhè nhẹ và tan đi như những vệt sao đổi ngôi hằng đêm.
Thuyền lão Được đi rồi, lão Kiếm miệng vẫn chửi lủng bủng. Cứ mỗi khi có ai nhắc xa, nhắc gần hay có ý nói, nhắc nhở đến chuyện đất liền là lão lại thấy lộn hết cả ruột. Cả đời lão, cả bố lão, thậm chí ông bà, cụ kỵ nhà lão nào có ai biết gốc gác quê quán ở đâu. Lão có nghe nhưng đấy chỉ là bắc chõ nghe nồi hơi chứ có cái gì bảo đảm. Từ ngày lão có mặt trên đời, lão chỉ thấy con thuyền nhà lão phiêu bạt nay đây mai đó. Đậu đâu là quê, nghỉ đâu là bến. Khúc sông còn cá thì ở, hết cá lại nhổ sào chèo đi nơi khác. Gạo chợ, nước sông. Bao đời nay nhà lão vẫn thế mà có thấy chết đói bao giờ đâu. Lão biết, bà Tèo, vợ lão thích lên bờ lắm. Chả gì, bà Tèo cũng một thời là người của đất liền mà. Đã đôi ba lần bà nhỏ to nhắt nhỉ, nói xa nói gần chuyện đó với lão. Chẳng lần nào lão muốn nghe. Chỉ cần nghe được câu trước câu sau là lão đã chửi. Lão muốn dẹp ngay cái tư tưởng nhăm nhe lên bờ với chả tình làng nghĩa xóm. Với lão, lối nghĩ của bà vợ chẳng khác gì chuyện mơ tưởng hão huyền. Lão nghe mà ngứa cả tai.
2
Mụ Đoác buôn cá trong làng bảo lão Kiếm phải bệnh giời đầy. Người lão lúc nào cũng nóng rừng rực, muốn cháy. Quanh năm suốt tháng lão ở dưới nước. Vào những ngày mùa hè, lão luôn phải ngâm mình dưới nước, chỉ thò mỗi cái đầu lên trên. Hôm nào nắng nóng quá, lão còn phải ngậm ống thông hơi, lặn nằm áp xuống bùn mới chịu được. Chỉ khi nào đói, lão mới ngoi lên ăn xong rồi lại lặn xuống luôn. Vào những ngày này, có việc phải ngồi trong thuyền một hai tiếng đồng hồ, lúc đó có ai dội nước vào người lão nghe thấy rõ cả tiếng xèo xèo như que than hay thanh sắt nung nóng nhúng nước. Cũng vì cả đời phải ngâm mình dưới nước nên da lão xam xám, đen đúa, nhăn nheo, seo lại như miếng thịt bụng lợn sề. Cũng vì lão luôn phải dìm mình dưới đáy sông, áp da áp thịt với bùn mà từ người lão tỏa ra mùi tanh tanh dìu dịu của bùn, của sa. Đời lão Kiếm chỉ mong quanh năm là mùa đông. Như mấy hôm nay, trời rét xuống đến bẩy tám độ lão mới có cảm giác dễ chịu. Mọi lời ong tiếng ve của người đời lão Kiếm đều nghe thấy hết. Với lão, thiên hạ có nói vậy chứ nói nữa chẳng là cái đinh gỉ gì. Lão lấy bông đút nút lỗ tai lại. Tha hồ mà nói, tha hồ mà nghe.
Mấy hôm nay không đêm nào lão ngủ được yên. Nhắm mắt là lão lại mơ đến con cá măng phá lưới hôm trước bị lão lôi cổ lên thuyền. Cả đời sông nước, chưa có con cá nào mà vướng lưới của lão có thể thoát được. Thế mà, hôm trước, lão đem lưới đánh trên khúc Rủ lại bị con cá măng phá cho tung lưới, còn lao lên húc làm lật thuyền. Lão hận. Hận lắm. Hận tất cả. Lão hận lão vì mang tiếng là người sống dưới nước mà không bắt nổi con cá và có con cá to thế, sống cùng ngay trong lòng sông mà cũng không biết. Lão hận con cá măng vì nó khôn quá. Con cá đã biết cách thoát khỏi lưới còn có ý làm nhục lão. Lão hận tay lưới không đủ sức cuốn chặt lấy con cá để nó thoát. Lão hận cả khúc sông Rủ vì để con cá măng to thế sống cùng. Cả ngày không lúc nào là lão không hậm hụi về chuyện đó. Hôm đó để con cá măng thoát lưới, chèo thuyền về đến nhà, lão thề sẽ bắt bằng được con cá măng đó để lấy mật ngâm rượu, lấy cái bong bóng phơi khô làm đồ nhắm rượu xem lão thắng hay con cá măng đó thắng.
Đang nghĩ chuyện cá chả biết sao lão lại nghĩ xiên sang chuyện vợ con. Cũng cái khúc sông ấy lão đã lặn xuống kéo bà Tèo dìm dưới nước rồi vác lên cái điếm canh đê. Và cũng chính cái khúc sông ấy, lão chứng kiến cảnh làng đưa người đàn bà bị lão dìm sông cạo đầu bôi vôi, trói vào cọc trên bè chuối thả sông. Rồi cũng chính đoạn sông ấy lão đã nhận và đưa người đàn bà ấy về làm vợ. Và lại cũng cái khúc sông ấy lão bị con cá măng làm nhục đời sông nước. Lão nghĩ rất nhiều về cái chuyện lão làm cách nay cả chục năm. Nếu ngày đó lão không túm chân bà Tèo, lôi dọc sông rồi vác lên cái điếm canh đê thì lão có phải chịu cảnh như bây giờ không? Nếu lão không nhận và chẳng có mặt ở cái khúc sông chết tiệt này, cái lúc người làng túm đông, tụm đen như nhặng xem cảnh cạo đầu bôi vôi thả sông thì liệu lão có làm cái việc tốt mà theo lão là duy nhất lão làm trên đời này? Giời đầy hay lão tự đầy? Lão chán. Lão chả cần biết nữa. Càng cố quên thì cái chuyện ấy hình như lại càng hay làm lão phải nghĩ. Nhất là mỗi khi nhìn cái bản mặt thằng Lợi, lòng lão lại bộn lên không yên. Nó cứ giống ai chứ chả giống lão lấy chút gì gọi là.
Theo lão, sự khốn nạn nhất mà lão phải chịu là người lúc nào cũng cứ nóng như than. Người nóng như than thì lão ngâm mình dưới nước, dưới bùn nó sẽ đỡ. Lão sẽ chịu được. Cái khổ nhất, nhục nhất là mỗi khi người như thế thì cái ham muốn xác thịt đàn bà của lão lớn lắm. Lớn đến độ lão không thể làm chủ được bản thân. Cái của nợ của thằng đàn ông lúc nào cũng căng cứng, đòi hỏi. Cũng đã có nhiều lần lão phải cố chịu đựng để tự hành hạ mình bằng cách lấy dây buộc vào nó rồi chằng ngoặc về sau. Thậm chí lão tự đánh cho nó thật đau để nó hết cái thèm muốn thú vật ấy. Cái lần lão lặn xuống túm lấy chân bà Tèo, dìm, lôi dọc sông cho đến ngắc ngoải rồi đưa lên điếm canh đê cũng là một lần như thế.
Hôm ấy, vừa chập choạng chiều, người lão lại nóng như phát hoả. Lão vội nhảy xuống sông lặn sâu xuống đáy. Khốn nạn cho thân lão. Đang nằm dưới lòng sông thì lão lại nghe thấy có tiếng bước chân lội nước. Nhìn qua làn nước mờ mờ, lão thấy cái chân trăng trắng, đùng đục. Chân của đàn bà. Lão đã cố tránh nhìn đi chỗ khác nhưng cái ham muốn của thằng đàn ông nó thức dậy. Nó đòi hỏi, nó căng cứng làm cho lão không thể chịu được. Lão thấy như có cái gì cứ thúc vào người đưa lão đến gần cái bắp chân trăng trắng, đùng đục. Lão trườn người sát mặt bùn đến gần. Khi lão đã nhìn rõ cái chân. Lão ngước nhìn lên. Trong làn nước lão nhìn thấy hai quả bồng đảo nhấp nhô như mời, như gọi. Và thế là cái gì phải đến đã đến. Lão túm lấy chân có hai quả bồng đảo đang nhấp nhô ấy mà lôi. Lão cứ túm hai cái chân kéo cái thân người trắng đục ấy đi một đoạn dài. Khi đã kéo được một đoạn đủ để cái thân người có cái túm đen đen ở giữa khêu gợi, cái quả bồng đào trái cấm ấy vừa đủ ngạt thì lão trồi người lên, vác xốc lên vai, leo lên đê chạy về cái điếm canh vắng tanh vắng ngắt nơi đồng không mông quạnh. Xong việc, lão vứt người đàn bà lại điếm canh đê. Lão lại trườn người xuống bùn nằm.
Rồi lại cũng vào một chiều, lão vừa đi thả lưới về đậu bên kia bến thì thấy trong làng tiếng mõ, tiếng trống, tiếng người xôn xao. Tiếng mõ, tiếng trống, tiếng người ngày càng tiến gần về bến sông. Kẹp giữa hai người đàn ông lực điền, tay chân cuồn cuộn cơ bắp như dây thừng, dây chão là người đàn bà. Nhìn kỹ, người đàn bà bị kẹp giữa hai người lực điền không ai khác chính là người đàn bà mà lão đã túm chân chiều muộn hôm nào lôi dọc sông rồi vác lên cái điếm canh đê. Phía sau có bốn năm người đang khênh cái mảng đóng bằng cây chuối. Đến bến, họ ném mảng chuối xuống bến sông rồi đưa người đàn bà có hai lực điền kẹp giữa đặt nằm xuống tấm phản trên mảng chuối. Mấy người trên bờ cũng lao xuống theo giúp hai người đàn ông lực điền trói, gìm chặt người đàn bà vào đó. Đám người trên bờ thi nhau chửi, rủa, tay chân chỉ chỏ rỉa rói. Sau khi đã gim chặt người đàn bà vào tấm phản, có một người đàn ông mà lão nhìn không thể đoán được tuổi trèo lên cái mảng chuối, lấy tay, túm từng đám tóc của người đàn bà rồi dùng kéo cắt. Vì bị gìm chặt vào tấm phản nên người đàn bà kia không thể đụng cựa được. Mỗi khi người đàn ông không đoán được tuổi cắt từng túm tóc thì người đàn bà lại ngọăc đầu bên nọ, ngoắc đầu sang bên kia trông như con sâu bị bọn trẻ lấy gạch đánh dập một phía chỉ còn cái đầu ngọ ngoạy thia lia.
Tuy là người của sông nước, lão chả cần quan tâm đến chuyện người trên bờ làm gì. Nhưng lão biết, người đàn bà bị gìm chặt trên tấm phản ở mảng chuối bên bến kia đang bị dân làng buông trôi sông vì tội chửa hoang. Đã đôi ba lần chứng kiến cảnh như thế này nhưng lão chẳng để ý. Đất có thổ công, sông có hà bá. Đất có thổ công hay không thì lão chả biết và lão cũng đấm thèm vào biết. Còn sông, với lão, hà bá là lão chứ chả là ai khác. Đời lão cả ngày ngâm dưới nước, lão chả thấy rồng rắn, thuồng luồng nào cả ngoài mấy con cá nhép mà thích bắt thì bắt. Lão bắt cá như người đời thò tay vào túi mình thế. Sống với cá, với nước, với bùn đất nên gặp chuyện trên bờ như thế lão chỉ thấy buồn cười. Của người ta, người ta không giữ lại mang cả làng đi lo giữ. Lão thấy thật thối chuyện, rỗi hơi.
Nhìn thấy người đàn bà bị lão túm chân, lôi dọc sông rồi vác lên điếm canh đê bị hành hạ, bị chửi rủa, như con thú sa bẫy, như con cá bị lão bắt đựng trong cái vợt giẫy giụa cố tìm lối thoát thân mà bất lực. Tự nhiên, lão thấy tức ngực, thấy đau ở bên dưới bụng, thấy thương, thấy tội lỗi. Có phải người đàn bà kia bị dân làng hành hạ, xỉ nhục, xua đuổi, loại bỏ khỏi cộng đồng loài người là do lão làm không? Chút thỏa mãn dục vọng của lão đã làm cho người đàn bà kia phải chịu bao đau khổ. Tại lão? Tại lão mà người đàn bà kia mới nên nông nỗi này? Lão thấy người lão cứ nóng dần, nóng dần lên.
Lão trố mắt lên nhìn, giương mắt lên chứng kiến người ta hành hạ người đàn bà của lão ở điếm canh. Lão nghĩ. Nghĩ nhiều lắm. Càng nghĩ lão càng thấy mình tội lỗi. Lão thấy lão thật ti tiện và khốn nạn. Lão nghĩ lão không bằng con chó đực, chó cái. Khi người đàn ông không rõ mặt lấy nghiên mực đổ lên mặt người đàn bà thì lão không chịu được nữa. Lão nhảy xuống nước, lặn một hơi sang đúng bên cạnh cái mảng chuối rồi trồi người lên. Bám hai tay vào mảng chuối, lão nhảy lên. Chiếc mảng chuối bị nghiêng, hất người đàn ông đang đổ nghiên mực xuống sông. Những người trên bờ, mặt cắt không còn giọt máu, miệng há hốc, mắt trợn ngược, đứng như trời trồng. Lũ trẻ đang hò hét hùa theo đám người lớn chửi rủa, mắng mỏ người đàn bà, thét lên. Có đứa chúi đầu chui xuống chân bố mẹ, có dăm ba đứa, sợ quá, giật lùi về sau ngã dúi dụi, vài ba đứa xé háng người lớn chạy vào làng kêu khóc. Đám người đang đứng trên bờ vón lại, xô ngả nghiêng. Người đàn ông có cái bản mặt không đoán được tuổi cứ chới với giữa dòng, hai tay chới với, chân đập lõm tõm như chân chó bơi sông kêu cứu.
Quăng mình xuống nước, lão lao ra chỗ người đàn ông đang đập tòm tõm chới với kêu cứu, giơ tay túm tóc lôi sấp lên bến. Xong việc, lão giật tung sợi dây cuốn quanh người đàn bà bị gim chặt xuống chiếc mảng chuối. Lão đứng trên chiếc mảng giọng cấm cẳn.
– Người đàn bà này do tôi làm có chửa. Làng muốn bắt vạ thế nào cũng được. Tôi đem người đàn bà này về ở với tôi.
Dứt miệng, lão đẩy luôn chiếc mảng về bên thuyền rồi bế vứt người đàn bà lên sạp. Sự việc diễn ra nhanh quá, bất ngờ quá, làm cho những người đang đứng trên bờ không kịp nhận ra lão là người hay ma, lão nói cái gì, đang làm gì. Khi mọi việc đã xong xuôi, hoàn hồn trở lại thì lão đã đưa người đàn bà kia vào trong ngôi nhà thuyền rồi. Và cũng từ đó, lão có vợ, có người đàn bà bên mình. Mấy ngày lão cũng có ý chờ xem người làng có ý kiến gì không nhưng tuyệt nhiên lão chả thấy có chuyện gì. Cả làng chẳng ai bắt khoan bắt nhặt gì lão. Mà hình như họ coi như mọi cái chưa xảy ra, trên khuôn mặt mọi người làng vẫn như không. Người đàn bà khốn khó từ đó thành vợ lão. Có nhiều ngày lão nghĩ. Tại lão đã làm cho người đàn bà khổ và cũng coi như cái số trời định thế. Lão làm người đàn bà khổ thì lão phải gánh chịu nỗi khổ do lão gây ra. Lão hại người thì trời đầy lão phải chịu thế này.
Mải nghĩ chuyện của vợ, lão Kiếm không để ý, giũa trượt ra ngoài. Chiếc lưỡi câu đâm sâu vào tay.
Lưỡi câu thả được làm bằng sợi thép nhỏ. Loại thép để làm lưỡi câu loại này thường phải mua của cánh thợ cầu. Họ thường chặt trộm các đoạn dây cáp rồi đem bán. Mua về, người làm lưỡi câu phải gỡ từng sợi, đem giãn cho thẳng, cắt từng đoạn ngắn vừa tầm uốn lưỡi. Xong, một đầu uốn một vòng nhỏ chỉ đủ luồn sợi dây cước hoặc sợi ni lông để nối với dây thả, có nơi còn gọi là dây ràng. Sợi dây này, khi thả câu được kéo từ bờ bên này sang bờ bên kia. Phía đầu dây thép còn lại, dùng giũa, giũa cho nhọn, sắc. Sau khi đã làm xong các công đoạn trên, dùng kìm đặt sợi thép đó vào một cái giá, uốn lại hình chữ u. Khi uốn xong thành từng chiếc lưỡi câu, lúc đó lại phải dùng lửa than cốc, nung nóng lên, tôi vào nước muối đặc. Đến khi đó mới có thể buộc vào dây thành dây câu thả xuống sông bắt cá được.
Những chiếc lưỡi câu đã tôi xong, chúng rất cứng và giòn. Nếu ai không biết đem uốn cho thẳng lại là sẽ gãy ngay. Sau mỗi lần thả, thu dây câu về phải dùng giũa, giũa lại lưỡi cho bén, tẩy hết phần gỉ vàng bám vào lưỡi đi. Giống cá nó thính lắm. Lưỡi câu thả chỉ cần có mùi tanh tanh của thép gỉ là chúng nó tránh được hết. Lúc ấy, có đem thả câu cũng chỉ là công cốc. Sau khi đã rửa sạch lưỡi đem nhúng vào mỡ lợn cho chúng không bị gỉ, trông anh ánh sáng. Cũng vì cái màu anh ánh sáng ấy, khi thả xuống nước, loại cá có mắt mà như mù không nhìn thấy, cộng thêm mùi mỡ lợn hút cá vào đó lượn lờ để mà vướng lưỡi.
Vì lưỡi câu được giũa sắc, tôi trong nước muối đặc nên khi con cá vướng vào, đâm vào da, chúng bén và ăn rất sâu, rất buốt. Khi đó con cá càng vùng vẫy, muốn thoát lưỡi câu thì lưỡi câu càng đâm vào sâu. Càng đau, con cá càng cố giẫy làm cho dây câu căng ra. Những chiếc vỏ ốc, nắp bật lửa hỏng buộc ở hai đầu cọc dây ràng làm tín hiệu rung lên. Nghe tiếng kêu, người thả câu biết để chèo thuyền ra bắt cá.
Trong tất cả các loại động vật, lão Kiếm thường nghĩ loài cá chính là loại ngu nhất. Theo lão Kiếm, ở đời, người chết vì của, kiến chết vì mỡ, chim chết vì mồi, kẻ dốt chết vì danh, kẻ có danh lại chết vì lợi. Thì đấy, lưỡi câu lão đem thả sông có mồi đâu. Giá lão mắc mồi mà chết cho cam. Đây lão không hề mắc lấy một tý mồi gọi là. Lưỡi câu lão thả sông là lưỡi câu không, nhưng loại cá, sống dưới nước, có mắt mà cũng như mù, chết vì ngứa ngáy, đú đởn.
Nói là nói vậy thôi chứ lão thừa biết. Giống cá khi bơi theo dòng nước, gặp cái gì trôi vật vờ là ngoe nguẩy, lượn lờ cọ thân vào đó. Chính vì tội gặp cái gì vật vờ cũng nghĩ là tử tế, hiền lành, ngứa ngáy cọ mình vào đú đởn, làm dáng. Dây câu lão làm sắc là thế, bén làm vậy. Khi lão thả xuống sông, các lưỡi câu cũng trôi theo nước vật vờ, ve vẩy, chúng mới cọ mình vào. Khi cá cọ mình vào dây câu, các vẩy lại nở ra và thế là, các lưỡi câu, lưỡi hái của thần chết đã chờ sẵn. Chỉ cần chúng chạm vào, các lưỡi câu lão buộc theo dây ràng, đang đung đưa ấy sẽ vướng vào kẽ vẩy và cắm sâu vào thân. Khi lưỡi câu của lão đã cắm vào thân thì đừng nói con nào chạy thoát. Khi các vỏ ốc, vỏ bật lửa buộc đầu dây ràng rung lên, lúc ấy, lão chỉ còn mỗi việc bơi thuyền ra, lần theo dây, luồn chiếc vợt xuống dưới và thế là hết đời.
Vì lưỡi câu rất sắc và bén, khi người thả câu giũa lưỡi phải rất tập trung. Chỉ cần sơ sẩy, lưỡi câu sẽ đâm vào tay ngay. Khi bị lưỡi câu đâm vào tay, để lưỡi câu dính trong da còn đỡ buốt. Rút lưỡi câu ra thì buốt lên tận óc.
Rút chiếc lưỡi câu ra khỏi ngón tay, lão Kiếm đút luôn vào mồm mút. Lão dùng tay kia, thò vào trong quần, giật mạnh. Xoè tay cho những chiếc lông rơi xuống mặt sàn rồi xoa xoa vê cho những chiếc lông lão vừa giật ra vón lại. Lão rút ngón tay đang đút trong mồm ra, đắp đám lông ấy vào chỗ bị lưỡi câu đâm.
– Mẹ cha nó chứ. Sao mà buốt thế.
Tự làm lưỡi câu đâm vào tay mình, lão Kiếm không biết chửi ai đành chửi đổng. Vứt dây câu lại, lão đưa mắt nhìn áng chừng số lưỡi câu đã giũa xong. Với tay kéo ấm tích. Rót một bát nước đầy, lão đưa lên uống một hơi. Xong, lão lấy ống tay quệt ngang miệng.
Mưa đã tạnh, mặt sông trông sáng, những con sóng nô đùa đuổi nhau hết lớp này sang lớp khác. Nhìn các con sóng đuổi nhau, lão Kiếm lại nhớ lão Được có một lần nói với lão. Cuộc đời sông nước cũng như các con sóng, suốt đời cứ chạy đuổi theo cái điều không tưởng nhưng lại hạnh phúc. Nghe lão Được nói lão kệ. Lão chỉ thấy thật vớ vẩn. Chúng cứ đuổi nhau như thế cả một đời không biết chán. Theo lão, ở đời việc gì phải cứ tự làm khổ mình vì sự hão huyền ấy. Ai đuổi thì đuổi, chứ lão, đấm thèm vào. Lão không nói, lão Được lại tưởng lão không biết gì, cười. Đúng là dớ dẩn.
3
Nhìn theo bóng thuyền câu của lão Kiếm cho đến khi khuất hẳn vào khúc ngoặt, bà Tèo chui vào nhà thuyền. Tự nhiên bà chán chường, không muốn làm gì cả. Bà với tay lấy chiếc ấm tích rót nước. Bà rót đến khi nước tràn ra sạp thuyền mới biết. Giật mình, bà đặt vội chiếc tích xuống rồi vơ vội chiếc áo rách mắc hờ bên mạn lau. Xong, bà ngồi thừ ra. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên má.
Bà không thể ngờ rằng cuộc đời xô đẩy bà từ một cô gái trên bờ, gắn bó với bờ xôi ruộng mật lại trở thành người đàn bà của dân làng chài, dân mà người làng luôn có những cái nhìn không thiện cảm. Người làng thường cho rằng, người sông nước thường là những kẻ vô ơn bạc nghĩa, dân trộm cắp, đầu sông cuối ngòi, dân tứ chiếng giang hồ, dân vô gia cư, chết vô địa táng.
Cái ngày bà còn là con gái, mỗi khi ra đường bà sợ nhất những cái nhìn như mắt sói. Bà luôn có cảm giác những ánh mắt ấy nuốt chửng lấy bà. Thế rồi bà gặp được một người con trai không biết từ đâu dạt về làng làm thuê cho nhà Bát Song. Mỗi lần ra đồng, thấy người ấy cứ lầm lụi làm, mỗi khi gặp bà cũng không như những người khác. Giáp mặt bà đấy nhưng cũng chẳng dám ngẩng mặt lên chào. Quanh năm suốt tháng chỉ có độc một bộ quần áo bằng vải diềm bâu, nhuộm nâu, dày như mo cau.
Năm đó, nước lũ trên thượng nguồn đổ về dữ quá. Con sông chảy cuồn cuộn, đục ngầu một màu vàng vàng của sa. Rều rác trôi lều bều cuộn vào các vòng xoáy. Chiếc cầu tre bắc sang đồng chao qua chao lại, lắc la lắc lư. Buổi sáng, khi bà đưa trâu sang thả ngoài mục con sông còn trong trẻo và hiền lành. Thế mà bây giờ, mới chưa đầy nửa ngày đã đầy nước. Nhìn chiếc cầu tre bà sợ. Nếu đang đi trên cầu mà chẳng may rơi xuống thì khó lòng mà sống nổi. Những cuộn xoáy nước kia sẽ dìm chết chỉ trong nháy mắt. Nhưng bà không thể không sang. Bà phải sang để đưa trâu về. Thời gian gần đây đã có một vài nhà làng bên bị bọn trộm trâu vào tận chuồng dắt trộm. Người khôn của hiếm, đói kém dễ làm người ta sinh thói hư, sinh đạo tặc. Nhà nông, của cải, kiếm sống đều nhờ con trâu cả. Con trâu là đầu cơ nghiệp. Không có con trâu rồi thành chết đói, mùa vụ lấy gì mà làm ăn, cày cấy. Nhìn dòng nước, nhìn chiếc cầu, dù sợ nhưng bà vẫn phải sang.
Dò dẫm từng bước lên cầu. Tay nắm vào cây vịn, bà lết lết từng bước một. Mới lết ra được chừng hơn hai mét, bà thấy cây cầu chao đảo, đưa qua đưa lại, tròng trành, lắc lư như muốn hất bà xuống sông. Bước lên cũng không được mà quay lại cũng không xong, bà cố bám thật chặt tay vào cây vịn. Đưa mắt nhìn xuống sông, bà thấy hoa cà hoa cải nổ trong mắt. Những xoáy nước bên dưới cứ hút bà xuống. Bỗng, chiếc cây vịn tay bị đứt lạt nối các cây với nhau. Bà nhao người. Dòng xoáy bên dưới cuốn bà đi.
Cứ mỗi lần con sóng đẩy bà lên, khi bà định kêu ai cứu nước lại tràn vào đầy miệng Bà chỉ còn giơ hai tay lên chới với cầu cứu. Dòng xoáy cứ mỗi ngày giật bà ra xa bờ hơn. Rồi bà thấy chân tay rã rời, người nhũn ra. Bà càng cố nhoai người lên mặt nước thì hình như dòng xoáy càng cố dìm chìm sâu xuống. Đúng lúc ấy, hình như bà thấy có một cái gì, không phải cá mà giống như một cái chạc cây, rất cứng, quặp chặt ngang người bà kéo đi. Chết đuối vớ được cọc, bà cứ ôm riết lấy vật đó. Rồi bà thấy cái gì đó cũng rất cứng cứ đánh vào mặt bà. Cái vật đó đánh liên tục cho đến khi bà không còn nhận ra cái gì, ngất lịm đi.
Khi tỉnh lại, bà lờ mờ nhận ra bà đang nằm trên bãi trồng mầu của làng. Ngồi cạnh bà là người đàn ông có khuôn mặt quen quen. Khuôn mặt cứ rõ dần, rõ dần. Người ngồi cạnh bà không ai khác là Được, người đàn ông làm thuê cho nhà Bát Song. Bà nhìn rõ khuôn ngực của Được vồng lên, đầy và dầy như ức con trâu mộng. Khuôn ngực có cái cơ cuồn cuồn ấy cứ phập phồng, phập phồng. Giật mình, bà nhổm dậy rồi lại vội nằm xuống ngay. Chiếc áo của bà đã không còn trên người. Phủ lên trên thân bà là chiếc áo diềm bâu, nhuộm nâu, dày như mo cau.
Bà không nghĩ Được lại khổ đến thế. Được bảo bà. Được là con trai của một gia đình thuyền chài ở trên vạn Bo, cách nơi này xa lắm. Vì nhà Được đông anh em, bao đời lênh đênh sông nước làm nghề kéo chài, thả mồi, buông lưới. Kiếp sống sông nước đầy ải vất vả. Đất không có một tấc cắm dùi, nhà không có một túp để ở. Sống ngâm da, chết ngâm xương. Được muốn lên bờ để làm thuê, tiết kiệm, tích cóp mua lấy mảnh đất cắm dùi. Được không muốn sống cuộc sống sông nước nữa.
Cho đến bây giờ, bà Tèo cũng không hiểu sao ngày đấy Được lại bỏ bà mà ra đi biệt tăm biệt tích như thế. Nhiều đêm không ngủ, nghĩ về quá khứ bà giận lão Được lắm. Khi bà báo tin có con, Được không nói một câu. Hôm sau, Được lẳng lặng bỏ đi đâu bà cũng không biết, để bà phải chịu bao nỗi cực nhục của đời. Được mong muốn rời xa kiếp sông nước mà sao khi biết bà có mang với mình lại bỏ bà mà ra đi. Nhà chỉ có hai mẹ con, có ruộng có vườn, có nhà có cửa mà sao Được lại đối xử với bà như thế. Nếu Được không thích ở rể thì mẹ bà cũng cắt đất ra cho vợ chồng bà cơ mà. Được vẫn nói với bà mỗi khi vụng trộm bên nhau chỉ mong có được mảnh đất, ngôi nhà vui vầy cùng vợ con mỗi ngày đi ra đồng vào ruộng. Bà chỉ có thể tự lý giải Được khi nghe tin bà có con, bỏ bà mà đi ấy là vì bà mẹ goá, con côi, gia sản của cả nhà chỉ có mảnh vườn với gian nhà rách nát. Ngày đó bà hận, bà giận Được lắm. Không ai khác, chính Được đã làm đời bà chịu bao vất vả, tủi nhục. Bà phải sống với lão Kiếm cũng vì Được. Và bà còn sống đến bây giờ cũng vì Được. Vì cái giòng giống của nhà Được chứ đâu có vì bản thân bà.
Hận Được, bà đi tự tử. Nhưng trời cứ bắt bà phải sống, cứ bắt bà phải chịu sự đầy ải của kiếp người. Khi bà lội xuống sông trẫm mình thì bà bị lão Kiếm túm chân, lôi dọc sông dìm cho đến gần chết rồi vác lên chiếc điếm canh đê. Ấy là khi về ở với lão Kiếm, từ khi lão lôi bà từ chiếc mảng chuối mà dân làng mang bà ra thả sông. Lão đã tự nói ra bà mới biết. Còn khi ấy, bà cứ nghĩ bà bị ba ba, thuồng luồng lôi đi. Khi bà lội ra gần giữa dòng thì tự nhiên thấy có vật gì cứng lắm, ngoạm chặt lấy chân rồi cứ thế mà lôi đi. Bà bị nó tha đi đến chết ngạt. Bà càng kêu nước lại càng ộc vào đầy miệng. Bà chỉ biết rằng, khi tỉnh lại thì bà lại nằm bên trong cái điếm canh đê ở nơi đồng không mông quạnh. Bà không muốn sống nữa nhưng lại sợ. Khi lội xuống, bà lại bị ba ba, thuồng luồng lôi đi như lần vừa rồi. Chết như thế mất xác, hồn không lên được niết bàn mà phải chịu đầy dưới chín tầng địa ngục, thả trong vạc dầu, chẳng bao giờ được đầu thai trở lại. Bà nào có biết, cái chuyện bị lôi đi dọc sông, dìm cho chết ngạt lại là lão Kiếm chịu tội giời đầy, cả đời phải sống dưới đáy sông tha bà đi như thế.
Bà cũng không thể hiểu được. Khi bà và lão Kiếm tưởng như đã an bài với số phận thì từ đâu, lão Được lại lù lù trở về. Ngày lão xuất hiện, bà lo đến thắt gan thắt ruột. Lúc đầu bà những tưởng lão trở lại dăm bữa nửa tháng rồi đi. Ai ngờ, lão mua lại của người ta chiếc thuyền câu cũ, trở lại làm nghề sông nước. Cái nghề mà theo lão, chết không có tấc đất để chôn. Phận đàn bà, mười hai bến nước. Lênh đênh phận gái theo chồng. Hạt mưa sa ra ngoài đồng, hạt sa vào trong chĩnh. Bà cũng chẳng mong ước gì hơn có được gia đình khi cái thân con gái của bà cũng không còn. Lão Được quay lại, âu cũng là trời muốn hành hạ thân bà, muốn đầy đọa bà thêm lần nữa.
Điều làm bà khó chịu và rất lấy làm xấu hổ, từ khi trở lại làm nghề sông nước, lão Được lại rất hay đến uống rượu với lão Kiếm. Nghe lão nói, chứng kiến cảnh lão giả bộ làm như không biết chuyện gì lão đã mang đến cho bà với lão Kiếm. Bà chỉ còn biết khóc thầm trong dạ. Những lúc như thế, bà lại thấy thương lão Kiếm biết bao. Dẫu lão Kiếm có cáu gắt, có tục tĩu, có chửi rủa và có gia trưởng thì bà vẫn thấy cái chân thành và thẳng thắn ở lão. Đã có những lúc, bà thầm cám ơn tạo hoá đã để lão Kiếm dìm bà xuống sông để lão gắn cuộc đời với bà. Nhưng rồi, những lần thấy lão Được long đong, vất vả kiếm miếng cơm từ con cá bà lại thấy thương. Bỏ bà đi biệt tăm biệt tích, khi quay lại cũng chỉ đủ tiền mua chiếc thuyền nan đã cũ của người ta để kiếm sống. Làm nghề sông nước mà cái thuyền, chiếc cần câu cơm cũng rách nát thì thử hỏi sống được mấy ngày. Lòng bà cứ bộn lên bao mối tơ vò. Cái bà lo nhất, sợ nhất là chuyện thằng Lợi mà bấy lâu nay lão Kiếm nuôi nấng, chăm lo. Nếu lão Kiếm biết không phải là cốt nhục của lão thì lão giết bà mất. Trời đầy lão cả đời phải ngâm mình dưới nước, phải làm bạn với bùn đất nhưng không phải vì thế mà lão không nghe, không biết chuyện gì của đời. Bà biết. Một con người như lão Kiếm, khi yêu cũng yêu hết mình mà khi đã ghét thì đào đất đổ đi. Được ngày nào lên bờ, bà lại tìm đến cửa nhà phật cầu xin đừng để chuyện ấy xảy ra. Đã có nhiều lần, đứng trước nhà phật, thấy người ta cầu tài cầu lộc, còn bà, chỉ cầu cho mình chết sớm để không phải gánh cái trái ngang cuộc đời mà không muốn khóc, nước mắt vẫn cứ lã chã rơi. Trời còn đầy đọa bà đến bao giờ nữa.
Có lần nghe mụ Đoác nói chuyện trêu đùa với lão Kiếm chuyện con cái mà bà lo thắt ruột. Mỗi lần lên bờ đi chợ, mỗi lần gặp người trên bờ là bà chỉ muốn trốn. Bà sợ từ ánh mắt của thiên hạ. Bà sợ từ cái cười, câu chuyện bông đùa của người đời. Bà sợ lão Được trở chứng lại nói nọ nói kia với lão Kiếm. Bà sợ lão Kiếm biết sự thật về việc bà bị làng trôi sông. Và bà sợ chính bà với những nỗi đau không thể nói với ai chỉ một mình gánh chịu. Mỗi khi lão Kiếm có việc vào làng là bà lo lắng mất ăn mất ngủ hàng tháng. Chỉ bao giờ, lão Kiếm dục đi chợ mua gói thuốc lào hay lạng chè thì khi ấy bà mới thấy yên tâm.
Lau xong chỗ nước đánh đổ, như tiện tay, bà lau dọn luôn cả gian nhà thuyền. Bầy cá lão Kiếm đánh về thả nuôi dưới lòng khoang thỉnh thoảng lại quẫy đuôi, kèn cựa nhau chỗ nước đáy khoang lục bục. Thở dài, bà leo ra đuôi thuyền, với tay chài tìm chỗ rách để vá. Con khoang vưỡn vẹo đi đến bên, cọ cọ sườn vào bàn chân. Vừa làm, bà Tèo vừa đưa mắt nhìn về phía khúc sông Rủ. Những tia nắng cuối ngày sáng chập chờn trên sóng. Cả khúc sông chỉ còn ánh lên màu bàng bạc, nhàn nhạt và dờn dợn.
4
Mấy bữa nay bà Tèo không thấy lão Được qua thăm nhà bà như thói quen thường ngày. Quá trưa, ăn uống xong, lão Kiếm đã hạ chiếc thuyền câu, quẳng tay lưới rồi với tay cầm mấy bộ dây câu. Còn chân trên chân dưới lão nói, không ra nhắc mà cũng chẳng ra bảo hay dặn dò. Lão bâng quơ.
– Tối nay tôi mới về. Ở nhà bảo thằng Lợi đi mua dầu. Hết rồi đấy. Nhớ mua cho mấy lạng thuốc lào nữa. Mà mua thuốc ngon ấy. Thuốc hôm nọ, hút vào vạ thối mồm.
Lão Kiếm vừa chèo thuyền đi khuất sau khúc sông thì lão Được chèo thuyền qua. Lão làm như vô tình tạt vào thăm chứ không có ý định gì cả. Thấy lão Kiếm không có nhà, lão Được dợm dợm tay chèo định đi. Mỗi lần gặp bà Tèo, lão lại thấy mình có lỗi. Cái lỗi lão cảm thấy cũng thoáng qua nhanh lắm. Nhanh như con sóng khi mái chèo khua vậy. Chỉ loáng cái là đã tan vào sóng nước. Không biết nghĩ thế nào, lão dợm dợm chèo rồi bỏ đi không cả chào bà Tèo như thói thường ngày.
Chèo thuyền đến khúc Rủ, lão Kiếm tìm lùm cây xoà xuống nước, chèo thuyền vào đó giấu. Lão dọn tay lưới, bộ dây câu cho gọn vào dưới cái sạp tre trong lòng thuyền rồi nằm dạng chân, gác lên hai be thuyền, gối đầu vào khung ngang nằm. Lão nằm lim dim mắt như ngủ, đôi tai lão hóng về khúc sông có ý nghe ngóng. Tối qua, khi lão sang nhà thuyền của lão Được uống rượu, nghe lão nói chuyện con cá măng ở khúc Rủ mà lão bắt trượt. Nhìn mặt lão Được lúc ấy, lão Kiếm biết lão Được muốn đến đó lắm. Trông cái mặt lão khi nghe kể cứ sáng lên. Đôi mắt của lão Được nhìn lúc đó cứ long lanh, long lanh. Lúc ấy, lão Kiếm đã nghĩ lão phải kiểm tra lại một lần nữa những phán đoán của lão. Mụ vợ nghĩ lão ngu, vạn chài bảo lão khờ, lão Được cho rằng lão là kẻ kém hiểu biết. Ai nói gì lão cũng mặc. Cả đời lão phải dìm mình xuống sông, xuống nước nhưng đâu phải mắt lão mù, tai lão điếc. Lão nghe thấy hết, nhìn thấy hết. Lão nghĩ thế nhưng lão cố chịu. Lão không muốn nói. Thâm tâm lão muốn nói bằng hành động cụ thể. Lão vẫn thích thế. Với lão, chả có cái nói nào quan trọng bằng việc làm. Lão nằm tưởng tượng ra những gì sẽ diễn ra chiều nay. Lão thấy vui, cười một mình.
Nằm khểnh đến chập choạng chiều thì lão Kiếm dìm thuyền, giấu tay lưới và dây câu rồi lặn xuống nước. Lão bám sát bùn, theo con ngòi ra nằm dưới lòng sông. Lão lần ra khúc Rủ, nơi có con cá măng đã làm rách lưới và còn có ý chơi xỏ lão. Dám đâm vào chiếc thuyền hất lão xuống sông. Khi ra đến khúc Rủ, lão khoét xuống bùn một cái rãnh, nằm ép sát vào đó. Cảm thấy chưa yên tâm, lão lấy tay vét bùn phủ lên kín người, chỉ thò cái đầu lên. Mái tóc của lão bị nước sông làm vật vờ, vật vờ như đám rong, rêu. Cái ống thông hơi lão ngậm trong miệng làm bằng ống thân hoa cây súng, phía trên được lão nguỵ trang bằng nụ hoa. Khi đã nằm yên vị dưới lòng sông, lão tưởng tượng ra cảnh lão túm được chân tướng của người luôn có ý coi thường lão mà cười thầm trong bụng. Lão sướng lắm. Cái cơ ở bụng của lão cứ co cứng lại.
Lão nằm chưa đầy hai ba mươi phút thì lão nhìn thấy có lớp sóng tõe ra như đuôi con cá trên mặt nước. Rồi cái vòng sóng có cái bóng đen đen nhòe nhòe cứ vẩn vơ, luẩn quẩn ở trên chỗ lão nằm. Phía trên lão nằm có ai đang thả lưới. Mấy lần lão định đưa tay kéo lại để xem là lưới của ai nhưng rồi thôi. Người sông nước, chỉ cần nhìn tay lưới, cách kẹp chì, buộc phao, thắt dây giềng là cũng biết lưới của nhà nào. Người trên bờ có câu, người nào của nấy thì người sông nước có câu, người nào lưới đấy. Tính nết con người nó cũng thể hiện qua nét buộc, thắt dây giềng, cái phao và cách kẹp chì.
Lưới đánh cá của mấy bà buôn gai vó đem bán ngoài chợ thường là lưới hàng. Lưới làm hàng thường phao buộc bẩy hoặc mười. Cứ bẩy mắt hoặc mười mắt lưới thì lại buộc một phao. Chì cũng thế, vì làm hàng nên người ta thường kẹp chì năm hay chì bẩy. Thậm chí có nhiều người không kẹp chì sẵn mà chỉ bán lưới rồi về người làm nghề sông nước, tuỳ theo ý định sử dụng vào đánh bắt các loại cá mới kẹp chì. Việc đó chẳng qua là người bán bớt được công làm song nó cũng tiện cho người mua. Kẹp chì sẵn có khi mua lưới về lại phải tháo chì ra kẹp lại. Lúc đó rất mất thời gian. Dây lưới mảnh, miếng chì mỏng. Kẹp đi thì dễ nhưng tháo ra, kẹp lại thì phải mất thời gian bằng bẩy tám lần làm lần đầu. Chỉ riêng cái công đoạn ngồi tháo dây chì đã chết ốm. Sau khi kẹp chì, người làm thường lấy kìm bóp cho chết hai đầu miếng chì để cho miếng chì khi quấn vào dây giềng có lỏng cũng không thể chạy qua chạy lại trong đó được. Chính vì thế, khi đã kẹp chì rồi, tháo ra kẹp lại rất dễ làm cho miếng chì hỏng và làm cho rách lưới.
Nếu đánh cá ăn chìm, cá tầng đáy thì người đánh cá thường buộc chì năm. Cứ năm mắt lưới lại phải kẹp một chì. Kẹp thế để cho chì nặng, kéo lưới xuống sát mặt bùn. Lưới đánh cá tầng lửng thì kẹp chì chín hoặc mười. Lưới đánh bắt cá tầng nổi, lưới kẹp chì mười hai hay mười lăm. Cá nhỏ thì mắt lưới dầy, cá to thì mắt lưới thưa. Đánh bắt loại cá rô, cá giếc thường dùng loại lưới xen một. Tức là mắt lưới đút lọt đầu ngón tay trỏ người lớn. Cứ một ngón tay người gọi là một xen. Đánh cá to, cỡ trên một cân trở lên thường dùng lưới xen ba. Nếu to hơn phải dùng lưới xen năm. Cũng vì thế mà chỉ nhìn cách kẹp chì, buộc phao, làm dây giềng, đo mắt lưới dầy mau là có thể biết được lưới đó dùng đánh bắt loại cá nào.
Nhìn qua làn nước, lão biết đây là lưới xen năm, kẹp chì một. Lưới này là lưới dùng để đánh bắt các loại cá to và ăn tầng chìm. Lưới này phải dùng để bắt những con cá to như con măng đã làm rách lưới và hất lão xuống sông vừa rồi.
5
Lão Kiếm vùi mình trong bùn nằm chờ. Trong khi nằm chờ, cái đầu của lão lại nghĩ đến chuyện dân trên bờ có người gặp lão bảo là ông nuôi cò. Cũng có đôi ba lần lũ trẻ trâu thấy lão là hát váng: “Công anh băt tép nuôi cò. Cò ăn cò lớn cò dò lên cây”. Có lần con mụ Đoác, chuyên mua cá của lão đi bán lẻ ở các chợ cũng nói xa nói gần như thế. Lúc đầu nghe mụ Đoác nói, lão không để ý. Mấy con mẹ hàng cá, hàng tôm là vua nhiều chuyện. Mấy mụ chuyên buôn dưa lê, bán dưa chuột này mà cứ nghe, để ý thì có mà nát nhà, thêm rặm bụng. Nhưng khi nghe mụ nói mãi thì lão cũng thấy có chuyện. Ừ. Có khi cũng phải xem lại cái tính phớt lờ chuyện đời của chính lão. Gặp lão, mụ thường cười tít mắt, cái đuôi mắt dài như mắt con dê cái, lúc nào cũng ươn ướt, long la long lanh. Một hôm, sau khi lần trong cạp quần mớ tiền nhầu nhĩ, còn tanh tanh mùi cá. Vừa lấy tay duỗi mấy tờ bạc cho thẳng vừa kiểm tra xem có bị dính hay không, mụ Đoác mắt nhìn lão cười cười. Nghe mụ Đoác nói mà cũng chẳng ra hỏi mà cũng không ra nói đùa.
– Nghe người ta bảo lão Kiếm là người mát tay nuôi con thiên hạ lắm.
Bố láo bố toét. Vừa nghe mụ Đoác nói thế, lão đã chửi thầm trong bụng. Nhà mụ thì con thằng nào chả được. Cá vào ao ta, ta được. Trông cái mông của nhà mụ, to như cái lồng bàn, cái eo thắt ngẫng lại, hai cái vú nần nẫn, chảy dài đến cạp quần thế kia, một ngày thiếu hơi thằng đàn ông thì mụ lồng lên quá con chó động đực. Hình như mụ Đoác không thèm để ý đến cái mặt lầm lầm lì lì của lão. Mụ cười hi hí khi vạch cái áo, để lộ làn da trắng nhờ nhờ màu nước gạo. Giọng mụ Đoác tí tởn.
– Cả ngày lão ngâm mình dưới nước, cái của nợ nó có bị teo đi không đấy? Bà vợ trông phổng phao, phốp pháp thế kia mà bị teo thì tiếc của giời nhẩy. Nó mà teo thì loạng quạng, có người đến tha đi mất đấy. Các cụ thường bảo: Trái chín chim tự tìm đến để ăn. Không biết lão có nghe thấy không?
– Chim cò cái con củ tiều nhà mụ. Chỉ được cái lắm mồm. Mụ có thích trông cái teo của lão không?
Lão chửi để át đi. Lão nghĩ, nếu lão mà không dẹp được cái miệng mụ Đoác thì chả phải đợi ba bẩy hai mươi mốt ngày câu chuyện của mụ đã vương vãi ra khắp hang cùng ngõ hẻm, lây lan nhanh hơn cỏ dại. Tránh hổ, tránh báo, xua ruồi, đuổi muỗi chứ ở đời ai tránh được miệng mấy mụ hàng cá. Bịt miệng chum, miệng vại chứ có ai bịt được miệng người.
Nghe lão chửi thế mà mặt mụ Đoác vẫn cứ nhơn nhơn. Mụ vén áo, gãi sườn sồn sột. Mụ giẩu môi, mắt đánh tanh tách, tanh tách.
– Thì em ngứa mồm nói thế. Lão thấy khó chịu thì thôi. Rưng mà. Em nói thật nhá. Lão cứ ngâm nước cả đời thế thì có khi nuôi con thiên hạ thật đấy chứ chả đùa đâu. Lão cứ nhìn mặt thằng con lão xem. Nó giống lão được mấy phần.
Mụ lấy tay đưa lên phía ngoài áo ngực. Mụ nhét cái vú khi ngồi xem cá nó chảy xuống vào cái xu chiêng. Xong, mụ lắc lắc ra ý thử xem cái vú đã nằm trong xu chiêng chưa. Trước khi quầy quả gánh cá đi, mụ Đoác nhìn lão cười tí ta tí toét.
– Khi nào lão thấy nó ngứa ngáy, không còn teo thì đến em. Em cho. He he.
Nghe mụ Đoác nói, lão rất khó chịu. Biết thế, nhưng lão chả dại ra nhời. Thiên hạ mấy người nói lại được mồm con mẹ hàng cá. Khi mua, một cân thì nói tám lạng. Khi bán, tám lạng lại tính một cân. Lúc nào, trong bị của nhà hàng cá chả có tới hai, ba quả cân. Nếu có bắt được cũng cãi xoen xoét, xoen xoét. Người mua thì chỉ có chịu thiệt. Với lão, thích lão cho cả cân. Cá dưới sông, lão thích bắt lúc nào thì bắt lúc ấy. Lão gửi giời chờ lớn mới bắt. Mặc dù không tin nhưng khi mụ Đoác đi rồi, lão vẫn ngồi thuồi luồi ra nghĩ. Bản thân lão cũng đã có lúc nghĩ đến chuyện này nhưng rồi lại cố xua nó đi. Nhưng thật khốn nạn. Lão càng cố không nghĩ thì lại càng làm cho lão nhớ chuyện của mụ Đoác đến phát ngứa ngáy. Mỗi khi nhớ đến, lão lại muốn đập phá một cái gì đó. Và những lúc ấy, lão lại chui xuống nước, nằm với bùn, với nước cho quên đi mọi chuyện ở đời.
Có một vật gì lao rất nhanh, soẹt qua người lão, suýt nữa cuốn cả ống thông hơi. Tốc độ quạt nước của nó làm lớp bùn phủ trên người cũng bị quạt cho vung vãi ra xa, để lộ thân lão trong hũm bùn. Trong màu nước lờ lờ, lão nhận ra vật vừa lao qua không gì khác là con cá măng chết tiệt đã làm rách lưới và hất lão xuống sông. Định thần nhìn lại. Chiếc lưới đang cuốn lấy con cá. Các mắt lưới mỗi ngày một mắc vào vây, vào đuôi, khoá chặt con cá lại. Rất nhanh, chỉ trong vòng vài phút, con cá đã cầm chắc cái chết. Hình như biết không thể thoát được, con cá không động cựa, kéo tay lưới chìm xuống sát đáy.
Lão Kiếm đang định thoát mình khỏi hũm bùn thì trên mặt sông, có vật gì lao đến rất nhanh. Hai vệt sóng toẽ ra hai bên thành luồng chạy dọc mặt sông. Kế tiếp là tiếng lạch cạch, lạch cạch gõ mạn xua cá. Khi đến chỗ tay lưới đang bị con cá kéo chìm xuống đáy, nó dừng lại. Phía trên mặt sông, nơi lão nằm vẫn là chiếc thuyền câu khi nãy. Chiếc thuyền câu trên kia đã đuổi con cá vào tay lưới. Đúng lúc chiếc thuyền câu dừng lại trên chỗ con cá đang bị tay lưới cuốn nằm dưới đáy sông, lão thấy tay lưới được ai đó kéo lên. Hình như chỉ chờ có thế, con cá măng lấy hết sức còn lại, đập đuôi xuống mặt bùn rồi cứ thế, kéo theo cả tấm lưới đang cuốn chặt lấy nó. Như một mũi tên, nó nhằm thẳng vào cái màu đen đen đang lập lờ phía trên mặt sông. Đám bùn dưới đáy sông quẩn lên. Lão chỉ nghe thấy ục một tiếng thì đã bị sóng ngầm giãn nước từ cú lao của nó làm bùn, nước ộc vào mắt, mũi và làm bật cả chiếc ống thông hơi lão đang ngậm trong miệng.
Nhoi lên khỏi mặt nước. Trước mắt lão Kiếm là chiếc thuyền nan đang bị nước tràn vào trôi lập lờ trên mặt sóng. Bơi lại gần. Ngay phía cuối chiếc thuyền nan, lão Được ngã vật, ngửa về sau, mặt hướng lên trời, chân mắc vào thanh ngáng ngang chiếc thuyền. Hai tay lão thả lủng lẳng sang hai bên mạn. Trên mấy ngón tay của bàn tay phải, mắt lưới còn mắc lại. Chiếc áo nâu cũ bị rách toang một mảng ngực. Máu từ bên trong chảy ra thành dòng. Các lớp sóng xô vào rồi dãn ra nhờ nhờ đỏ. Trong lòng thuyền, con cá măng vẫn bị các mắt lưới cuốn chặt lấy vây, đuôi, nằm chắn gần hết chỗ thủng của đáy thuyền. Vài ba chiếc nan gẫy rời, nổi vật vờ ở bên.
Để mặc chiếc thuyền và con cá cùng tay lưới lại khúc sông, lão Kiếm bơi về chỗ giấu thuyền. Khuôn mặt lão không biểu lộ buồn hay vui. Lão thư thả chèo thuyền về.
Không thèm mắc dây vào đầu cọc neo, lão Kiếm vứt chiếc dây một đầu buộc chiếc thuyền câu lên sạp mui. Đặt chân lên sạp, lão khom người chui thẳng vào gian nhà thuyền. Thấy hôm nay thái độ của chồng khác mọi khi, bà Tèo buông vội tay ghim vá chài đứng lên. Khi bà vừa ngoặc được sợi dây vào cọc neo ở mui thuyền, lão Kiếm buông se điếu, đẩy chiếc điếu bát ra xa, nhấm nhẳn.
– Nay không có cá đâu mà ngóng. Lên khúc Rủ mà đưa lão Được về. Nhớ gọi cả thằng Lợi đi cùng.
Ngược chiều gió mùa, bà Tèo lật đật chạy theo triền đê. Bóng bà cứ vật vờ, vật vờ trôi trên mặt sóng. Từng đợt sóng vẫn nối tiếp đuổi nhau kéo theo bóng bà Tèo cứ vẩn vơ trôi, vẩn vơ trôi rồi lẫn vào sông, vào nước. Từ trong làng, tiếng các bà re réo lũ trẻ mải chơi nhởi về bỏ thêm rơm, cỏ và che chắn cửa chuồng trâu, chuồng bò vọng lại.
Nhìn theo cái bóng te tái, lật đật chạy sấp ngửa của bà Tèo trên đê, lão Kiếm đứng lên, chui ra khỏi nhà thuyền. Đứng trên đầu mui lão gọi vóng vào trong làng. Nghe tiếng lão, thằng Lợi chạy về. Vừa nhìn thấy thằng Lợi, lão Kiếm giục.
– Đi nhanh nhanh lên. Chạy lên khúc Rủ. Mẹ mày vẫn đang chờ ở đấy đấy.
– Có việc gì thế bố?
– Cứ lên đấy rồi biết.
Đợi cho thằng Lợi chạy đi, lão chui lại vào trong nhà thuyền, ngồi ật người ra sau, dựa lưng vào vách. Trên khoé mắt lão, giọt nước cứ chảy dài trên má.
Trên mặt sông, các con sóng vẫn cứ vẩn vơ trôi./.
CHUYẾN ĐI KHÔNG ĐỊNH TRƯỚC
Lam Hạnh lặng lẽ xếp quần áo vào chiếc va ly số. Xong, cô kiểm tra lại lần cuối, như những lần đi công tác, một thói quen mà những người trong nghề là yếu tố cần thiết để hành sự, tác chiến một cách độc lập. Nhìn đống đồ toàn thứ cách nay đã hơn hai mươi năm như áo cánh trắng chiết ly, áo hồng thụng Hồng Kông, chiếc áo phông bó màu lửa, chiếc quần jean ống chẽn, mốt của một thời đã lùi sâu trong quá khứ, Hạnh mỉm cười một mình.
Nhìn quanh một lượt căn phòng, như chợt nhận ra điều gì, Hạnh bật khoá, lấy toàn bộ tư trang ra khỏi chiếc va ly, đóng lại, đặt lên nóc tủ. Lôi từ góc ngăn kéo dưới cùng ra chiếc túi du lịch ba tầng vải bạt xanh, tài sản quý giá của một thời mới ra làm báo. Nhìn chiếc túi du lịch, Hạnh nhăn mặt. Bụi quá. Hơn mười năm, từ ngày những chuyến đi công tác xa Hạnh quen dùng va ly để đựng tư trang nó được ấn vào tận góc cùng của ngăn tủ và trở thành một thứ đồ thừa trong gia đình. Cũng may, trong những lần chuyển nhà, dọn tủ, nó chưa bị ném ra ngoài đường. Dùng khăn ẩm rồi bàn chải lau chùi, đánh rửa sạch sẽ, vẩy vài giọt nước hoa cho bay mùi ẩm mốc, Hạnh xếp các thứ vào. Vừa làm Hạnh vừa cười. Bạn bè vẫn gọi Hạnh là người hoài cổ, hâm. Ngay chồng Hạnh, nhiều khi vui anh vẫn nói đùa: Người ngày xưa của tôi ơi.
Đi lại trước chiếc gương cánh tủ hai buồng, Hạnh đưa tay vén lọn tóc gọn về sau, xoa nhẹ lên khoé mắt, những vết rạn chân chim mờ mờ giãn ra rồi xuất hiện trở lại. Vết thời gian, vết lo toan, vết trải nghiệm hay là vết của sự già nua đời người. Bao nhiêu tuổi được gọi là già, bao nhiêu năm được nói là trẻ, có nhiều người năm, sáu mươi vẫn cho mình là trẻ. Theo họ, trẻ ở đây không chỉ là tuổi tác mà còn là cả trong tư duy, ý nghĩ và nhận thức. Lẫn lộn hết, đánh đồng hết, cứ nháo nhào chả biết đâu mà dò. Thôi không nghĩ nữa, già thì mình cũng thế này, trẻ thì mình cũng thế này có khác gì đâu. Với tay giật tờ lịch, Hạnh lật mặt sau ghi mấy chữ chỉ đủ mang lượng thông tin cần thiết cho chồng: “Em đi công tác”, rồi lấy chiếc cốc đặt đè lên góc.
Hạnh kéo lê chiếc túi du lịch ra cửa, mấy bánh xe phía dưới lâu ngày không dùng, cái trục sắt hoen gỉ kêu ken két, loạch quạch như rên rỉ, hờn dỗi. Giơ tay bấm khoá, Hạnh hình dung ra chuyến đi và con đường phía trước đang chờ đợi. Những con đường đưa người ta tới đích và cũng những con đường ấy đưa người ta quay trở về điểm xuất phát ban đầu. Trong mớ hình dung lẫn lộn ấy Hạnh thấy xuất hiện một khuôn mặt mà đã bao năm nay luôn ẩn náu trong con người cô. Đã nhiều đêm Hạnh mất ngủ vì khuôn mặt ấy. Ngay chuyến đi không định trước này cũng có sự níu kéo, như lực hút của khuôn mặt ấy. Một khuôn mặt rất quen thuộc nhưng cũng rất xa xôi với cô. Một khuôn mặt mà Hạnh đã từng giấu nó suốt bao nhiêu năm qua trong nỗi nhớ, sự trăn trở, lúc buồn, khi vui thậm chí trong cả nỗi đau những lần vấp ngã trước cuộc đời đan xen bao điều sáng tối. Cũng khuôn mặt ấy đã làm cho Hạnh phải chịu một sự ghen tuông đến mù quáng của Thường-chồng cô và bao trắc trở trong suốt những năm vợ chồng. Khuôn mặt của riêng Hạnh mà cũng không phải của riêng Hạnh.
Sau vài tiếng hú dài như bầy sói tru lên gọi đàn trong rừng thẳm, tiếng hú đập vào vách đá dội lại âm âm u u rờn rợn cùng vài nhịp giật cục, tiếng bánh xe sắt miết trên đường ray ken két, trèo trẹo con tàu lục cục rồi rùng rùng chuyển bánh. Nép sát vào khung cửa sổ con tàu Hạnh nhìn ra ngoài, trên sân ga, những cánh tay đưa lên vẫy vẫy như chiếc lá mỏng mảnh chìm lấp trong sự chia ly. Trong cả rừng lá ấy, có vài ba bàn tay ấp vào nhau như bái biệt, gật gật giã từ, đôi ba cô gái trẻ, mắt hoe đỏ, gót giày cao gót lạch cạch nện xuống mặt sàn xi măng trên sân ga chạy theo, vịn hờ vào cửa sổ con tàu rồi buông xuống hờ hững vô hồn. Đuổi theo con tàu rời ga dăm ba lời nhắn gọi hẹn lần gặp khác. Từng khuôn mặt rồi những khuôn mặt lướt qua ô cửa sổ nhanh dần vón thành từng cục và khuất hẳn theo tiếng hú tru tréo của con tàu. Tàu đã rời ga nhưng Hạnh vẫn cảm thấy những cánh tay, những khuôn mặt, những ánh mắt, những câu trao đổi vội vàng và cả những tiếng ồn ào hỗn tạp ngầu xì ở sân ga chờn vờn đuổi theo phía sau. Nó bám vào làn khói trắng phất phơ, mỏng mảnh của con tàu như níu kéo, như giành giật và như nô giỡn trong khoảng cách của không gian thực giữa kẻ đi và người ở. Trong những khuôn mặt vui buồn, bình thản, cau có của những kẻ ngồi trên tàu này có ai như Hạnh không. Không người đưa tiễn, không người mong, không kẻ chờ, đơn độc và lẻ loi, một mình vừa là kẻ đưa tiễn vừa là kẻ đi, sự chia ly và đoàn tụ chỉ gói gọn trong một con người. Bất giác, Hạnh khẽ rùng mình, người có cảm giác ơn ớn lạnh như khi thò tay sau cánh tủ lấy đồ nấu ăn hàng ngày. Kéo sụp chiếc mũ phủ hai tai, khoanh tay ghì chặt lấy ngực, Hạnh cố ép tiếng thở dài, hít một hơi thật sâu đến khi chiếc dây áo con căng ra mới từ từ nhả nhịp thở chậm, nhẹ và thật đều theo từng nhịp bánh xe con tàu lăn qua hai đầu ray nối.
* *
*
Ngày … tháng….năm…
Thế là mình đã lên được biên giới, giá cứ ở Hà Nội thì không thể tưởng tượng được nó vất vả và gian khổ đến thế này. Nghe mấy anh đi về nói chuyện sao mà trữ tình, nên thơ và mơ mộng đến thế. Cả quãng đường dài đi bộ hai ba mươi cây số không một bóng người lại xuyên qua toàn rừng già. Cứ theo lời dặn của mấy chú ngoài tỉnh mình bám theo vệt bánh xe mà đi. Thi thoảng lại gặp đàn lợn vằn vện kẻ sọc dưa khìn khịt cắm đầu xuống vầy mình trong vũng, nghe động, xé bụi chạy ầm ầm lao vào rừng già. Cách quãng lại có một vài con chim to như gà tre, xoè cánh nâu có điểm đen bay vù qua mặt, lủi sâu vào đám dây leo mốc thếch, xám ngắt. Mình còn gặp vài ba đàn gà có màu lông sặc sỡ dắt bầy con liếp nhiếp kiếm ăn bên đường. Bầy gà mải kiếm ăn không để ý, khi mình đến gần mới tớn tác kéo bầy con bay vù vào bụi rậm. Một mình đi trong rừng âm u, hoang sơ, lành lạnh mình cũng sờ sợ. Đúng là đường lên biên giới ngửa mặt là núi, cúi mặt là suối, một cảm giác nhỏ bé, đơn độc, lạnh, sợ luôn thường trực xuất hiện trên suốt quãng đường đi. Đường vừa nhỏ lại vừa bé khó đi còn phải vượt bảy con dốc. Nào là dốc Mã Tim, Cổng Trời, Chín Thang, Chín Quai, Ngựa Đái, Cô Đơn, Mất Em. Có một nhà thơ nào đã nói về chân dung người lính biên phòng “chân đạp mây bay tóc vờn gió núi” thật chẳng sai chút nào.
Không biết người ở đây có giống như mình không, cứ mỗi lần vượt dốc là người cứ buồn đái. Thật may đường vắng, lắm bụi, nhiều cây chứ nếu không, mình đến khổ. Chắc mình chưa quen, đi đường mệt uống nhiều nước nên mới thế.
Mình vừa vượt qua dốc Mất Em thì nhìn thấy đồn, nói đúng hơn là nhìn thấy lá cờ Tổ quốc. Trước lúc mình đi, mấy anh ở phòng chính trị nói cho biết, lên biên giới, đi bao giờ nhìn thấy cờ Tổ quốc thì ở đó sẽ là đồn. Đồn biên phòng phải treo cờ hai bốn trên hai bốn giờ. Cờ Tổ quốc ở đây không chỉ đơn giản là đại diện của cơ quan, của nhà nước mà nó là sự phân định chủ quyền của dân tộc này với dân tộc khác, sự thiêng liêng bất khả xâm phạm.
Để túi đồ bên đường mình tìm một bụi cây lúp xúp bước vào. Bỗng có tiếng quát rất gần, gằn giọng, kiên quyết.
– Ai. Làm gì ra ngay.
Rồi tiếng soạt soạt của kim khí, sắt thép trượt trên nhau. Mình sợ quá luống cuống vội trả lời.
– Em. Em…
Nghe thế tiếng quát càng nặng và cương quyết hơn.
– Ra ngay, không tôi bắn.
Chẳng kịp gì, mình kéo vội khoá lao ra làm són cả ra quần. Cũng may quần bò ngấm nước chứ cứ mặc như ở nhà thì không biết lỗ nẻ nào mà chui…
* *
*
Hạnh tủm tỉm cười, cô thấy hai bên má nóng bừng.
Đưa mắt nhìn ra ngoài ô cửa sổ con tàu, cánh đồng trông như tấm áo vá, chỗ lúa chín vàng tươi rạo rực, chỗ đang đỏ đuôi nhờ nhờ nhàn nhạt, chỗ đang vào mẩy xanh khô khan cứng cáp. Cạnh đường tàu, vài ba thửa ruộng đã được gặt non để cày làm màu gối vụ. Cả cánh đồng không khác gì tấm bảng màu của ông hoạ sỹ lơ đãng chấm chấm quệt quệt nhoè nhoẹt ngoe ngoét. Xa xa, những tia nắng cuối chiều hắt lên bầu trời màu hồng hồng như rẻ quạt sau vệt xanh mờ của làng quê. Hạnh nhớ về những ngày chăn trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc, tóc vàng hoe như râu ngô, xơ xước.
– Cô ơi! Cô có điện thoại thì phải?
Giật mình Hạnh quay lại. Một anh bộ đội còn trẻ ngồi phía đầu ghế ngoài, quần áo ngay ngắn, khuôn mặt sạm đen vì nắng. Thoáng nhìn, Hạnh cứ ngờ ngợ như gặp ở đâu rồi thì phải.
Hạnh kéo khoá chiếc ví lấy máy, mải nghĩ cô không để ý tiếng chuông điện thoại. Nhìn mặt máy, Hạnh thở dài uể oải trả lời.
– Anh à. Em đang ở trên tàu. Em không biết đã đến đâu rồi. Vội quá, toà soạn yêu cầu đi ngay. Thì em đã để thư trên bàn rồi còn gì. Không biết được, bao giờ xong việc thì về. Anh cứ bảo con em đi công tác, mười tám hai mươi rồi còn bé bỏng gì phải lo. Có gì anh nói nhanh lên, máy báo pin yếu rồi.
Cúp máy cô trả nó về vị trí cũ.Trong mọi cái chán mà cô phải chịu có lẽ chán nhất khi đi công tác Thường cứ gọi điện hỏi đi đâu, làm gì, bao giờ về, không khác gì cuộc thẩm vấn. Làm nghề báo, nay đây mai đó, đang đêm cần việc cũng phải đi, ngay hướng đi cũng khó xác định, có khi định đến chỗ này nhưng rồi nhân vật, sự kiện lại sang chỗ khác, phải lóc cóc bám theo. Con người có ai tự khẳng định được mình sẽ sống bao nhiêu tuổi, sự việc xảy ra ai biết đến đâu thì dừng. Có khi nó dừng đấy nhưng thực ra bên trong nó lại đang đi, đang chuyển động chờ sự bùng phát mới đến. Cũng vì thế mà không ai dám định trước ngày về, thậm chí, một sự việc xảy ra ta theo nó suốt cả cuộc đời chưa xong. Còn một điều nữa, đằng sau những cú điện hỏi thăm rất quan tâm ấy ẩn chứa một điều mà chỉ Hạnh biết. Bạn bè ai cũng khen Hạnh may mắn được chồng quan tâm lo lắng, đi khỏi nhà là điện, đang làm cũng điện, một ngày xa nhà có người chẳng được một cú nháy máy nhắc nhở. Còn Hạnh, tiếng một lần đều đều như đồng hồ, chính xác đến từng giây. Có người bạn đồng nghiệp đi công tác cùng Hạnh đã hóm hỉnh kết luận: Đi công tác cùng Hạnh không cần đeo đồng hồ, chỉ cần nghe tiếng chuông điện thoại rung của Hạnh là biết đã trôi qua một giờ đồng hồ và thế là chúng ta đến gần cõi niết bàn thanh nhàn, sáng láng, sung sướng một giờ. Ở đời cái gì quá cũng khổ. Yêu quá cũng khổ, ghét quá cũng khổ, ghen quá cũng khổ, quan tâm quá cũng khổ nhưng mất lòng tin là cực khổ. Những cú điện đều đặn của Thường vừa có sự quan tâm nhưng cũng vừa là sự mất lòng tin. Hạnh cũng không thể lý giải được tại sao lại như thế mặc dù chưa bao giờ cô muốn đi tìm lời giải thích nguyên nhân của sự ghen tuông và mất lòng tin của Thường, ấy là thằng Ba, con cô nó giống người ấy đến thế, giống như tạc vậy.
– Cô ơi! Cô làm sao thế. Cô mệt ạ.
Nghe tiếng hỏi Hạnh quay lại.
– Ờ…ờ. À không. Cám ơn cháu, cô không sao.
Hạnh nhìn kỹ người lính. Trán rộng, lông mày rậm, mắt sáng, mũi cao thẳng, môi đỏ, miệng nghiêm, tướng mặt khó gần, nhưng những người như thế này thường sống có chiều sâu nội tâm, tính tình thẳng thắn, chân thành cởi mở, làm ra làm chơi ra chơi, đôi khi ngang tàng. Hạnh lắc lắc đầu xua đi sự ám ảnh. Cô mắc thói xem tướng người khác từ khi nào thế này. Lúc mới gặp, Hạnh ngờ ngợ và bây giờ cái ngờ ngợ ấy lại ùa đến. Hạnh cố nhớ nhưng không làm sao nhớ được. Mấy chục năm làm báo, bao nhiêu vùng đất cô đã qua, biết bao con người cô đã gặp, mặc dù tất cả những nơi ấy, con người ấy đều là dấu ấn cho các bài viết của Hạnh. Tuy được bạn bè trong toà soạn đánh giá là người có trí nhớ tốt nhưng có lẽ thời gian đã làm cho con người thay đổi dáng vẻ bên ngoài và cả nội tâm bên trong quá nhiều chăng mà Hạnh không nhận ra được đó là ai. Hạnh đang định làm quen để hỏi thì tàu kéo còi vào ga. Người lính đứng lên.
– Cô cho cháu gửi đồ một lúc nhé. Cháu xuống ga có chút việc.
Không biết Hạnh có đồng ý hay không, nói xong người lính vội vàng đi ra phía cửa toa xe.
Ngồi lại trên toa xe, để tránh phải trả lời những câu hỏi, lời mời của người bán hàng rong, Hạnh xoay người quay mặt ra cửa sổ. Theo thói quen, Hạnh đưa tay vào túi lấy điện thoại. Màn hình tắt, máy hết pin. Hạnh bật cười, thói quen cứ mỗi tiếng đồng hồ trôi qua lại phải trả lời Thường, dù chỉ là một hai từ có hoặc không làm cô nhớ tự nhiên cầm điện thoại. Thế mới hay cái khó chịu, nhàn nhạt để lâu rồi cũng thành quen, không có lại nhớ, trách gì những cặp vợ chồng và những người có cuộc sống tẻ nhạt đến mức chán chường mà vẫn đi hết được một đời, nhất là những người có chức có quyền một chút, quen nghe lời nói hay dù biết đó là giả dối mà vẫn thích, lâu lâu không được nghe lại nhớ lại buồn, sống chết giữ cho được cái ghế đang ngồi.
* *
*
Ngày … tháng… năm…
Gớm, ở với lính mới thấy họ là những người sống vô tư, vui vẻ và trách nhiệm, dẫu biết rằng phía trước vất vả thậm chí phải hy sinh cũng sẵn sàng, không né tránh, không đùn đẩy, chấp nhận một cách thanh thản. Mấy ngày trước anh Trải, sáng nay mình mới biết bằng tuổi, trung đội trưởng vũ trang gọi lại nói giọng rất quan trọng.
– Chị Lam Hạnh này.
– Dạ.
– Tôi phải bảo cho chị biết sợ vô tình chị không biết thì gay.
– Cái gì thế anh?
– Ở đây có loại vắt to lắm đấy. Loại vắt này hơi con trai không sao, gặp hơi con gái nó phồng to lên như quả chuối, đen trùi trũi. Nó mà bám vào rồi thì rứt không ra được đâu.
– Thật không anh. Mình nghe Trải nói sợ quá vội hỏi lại.
– Thật. Trải nói mặt lạnh tanh.
Mình sợ , đi đâu làm gì cũng có ý cảnh giác ngó nghiêng để tránh. Hôm sau gặp anh Phán, đồn trưởng, mình hỏi. Nghe xong anh đỏ mặt rồi cứ thế cười, không trả lời mà nói lảng sang chuyện khác. Mình là người đồng bằng có bao giờ biết mặt con vắt nó như thế nào, nó ra làm sao. Mình ngố thật. Đêm ấy nghĩ mãi, đến khi hiểu ra mình cứ thế ôm gối cười. Trông bề ngoài nghiêm nghị thế mà tếu nghịch không ai bằng.
Sáng nay Trải gặp mình ngoài cổng đồn đã hỏi.
– Chị Lam Hạnh thấy con vắt ấy chưa?Mình xấu hổ quá. Người đâu mà đùa tếu như rái, chả bù cho hôm bắt mình về đồn, quát làm mình vãi cả ra quần.
– Em chưa thấy nên chưa bắt được.
– Ấy ấy, thấy nó chị đừng bắt. Nó có ích cho cuộc đời này lắm đấy – Rồi anh cười – Mà này, chị đang lo gửi bài về toà soạn phải không?
Mấy hôm nay tổng biên tập gọi lên nhắc gửi bài về mình đang lo thắt cả ruột. Ở dưới nhà quen dùng máy chữ, lên đây rừng thẳm núi cao, cái gì cũng thiếu, không khác gì thời nguyên thuỷ, đã thế lại phải viết bằng tay đến khổ. Lâu ngày không quen cầm bút viết được vài dòng đã bị chuột rút. Như kẻ buồn ngủ gặp chiếu manh, chết đuối vớ được cọc, mình vội hỏi.
– Sao anh biết?
– Trông nước da của chị là tôi biết. Tôi còn biết chị đang muốn nhờ người chép lại mấy bản thảo cho sạch sẽ nữa cơ.
– Vâng.
– Tại sao chị không nhờ mấy anh em ở đồn chép cho. Ở đây, một trăm phần trăm ai cũng biết viết bằng hai tay.
– Thật không anh? Mình hỏi đã có ý cảnh giác.
– Thì chị bảo, ở biên giới, xa xôi hẻo lánh, hết giờ trực anh em tôi còn biết làm gì nên tập viết hai tay cho hết thời gian. Không tin chị hỏi đồn trưởng xem – Anh nói chắc như đinh đóng cột – Anh Phán là người viết hai tay giỏi nhất đồn.
Chiều lúc mọi người chơi bóng chuyền, anh Phán mời mình vào uống nước. Mình đem chuyện ra nói để nhờ anh bảo mọi người giúp và cũng là để kiểm tra thông tin Trải nói có đúng không. Vừa nghe mình nói xong, anh đỏ mặt có vẻ rất tức. Anh đi ra cửa gọi to.
– Đồng chí Trải vào phòng tôi ngay.
Mình đoán lại có chuyện gì vội lẻn ra ngoài. Trải vẫn mặc quần áo may ô chạy vội từ sân bóng vào. Trải chưa vào đến nơi, anh Phán đã dằn giọng.
– Cậu vừa nói cái gì với cô Lam Hạnh về chuỵên viết bằng hai tay hả.
– Thì em bảo đồn ta ai cũng biết viết bằng hai tay, giải nhất là đồn trưởng-Mặt Trải vẫn lạnh tanh, giọng tỉnh queo như không có chuyện gì xảy ra.
– Ai biết viết. Viết bao giờ cậu nói cho tôi nghe.
– Báo cáo đồn trưởng. Sáng nào, trưa nào, tối nào mà ai chẳng phải cầm cái ấy để thải cái khai ra ngoài ạ.
– Ai bảo cậu đấy là bút, là viết hả?
– Thế chả nhẽ em lại đọc tuột tên cúng cơm cái ấy ra ạ.
– Cúng cơm cái con …Chỉ được cái bố láo bố toét.
Anh Phán vào phòng đóng sầm cửa lại. Từ nãy đến giờ thấy đồn trưởng cáu anh em chạy lại nghe, rõ chuyện cười như chợ vỡ. Trải quay ra với mọi người, vừa đi vừa cười, mặt cứ như không. Trời ạ. Người đâu mà liều thế. Mà sao mình ngu vậy, có thế mà không nghĩ ra…
Ngày …tháng…năm…
Không biết nên nói chuyện này là rủi hay là may, nghe tin Trải xuống bản mình đòi đi. Làm báo có người ví như loài kiến, ở đâu có mỡ là kéo đàn kéo lũ đến. Nhiều khi mình nghĩ mỡ thiu kiến có đến cũng chẳng làm gì được, mà làm báo không thế lấy đâu ra tin, muốn phát hiện được vấn đề bạn đọc quan tâm không có cách nào khác là phải mắt nhìn, mũi ngửi, tay sờ. Tính chân thực của báo chí luôn đòi hỏi người làm báo phải biết lăn lộn, vất vả là thế. Chả thế mà người đời cho rằng làm báo là một nghề nguy hiểm.
Đúng là ngủ sông, ở bãi, đi rừng. Bản Páo mình và Trải đến chỉ có dăm nhà mà đi cả ngày không hết, từ nhà này sang nhà khác cách vài cây số. Nhìn thấy trước mặt mà đi muốn rời chân ra mới tới. Trải đến nhà nào cũng được mọi người đón tiếp vui vẻ, chả khác gì người thân đi xa về. Người dân ở đây nghèo quá, nghèo đến xác xơ, cả gia đình hàng chục con người ở túm tụm trong ngôi nhà tường trình đất. Tài sản không có cái gì đáng giá nổi vài chục ngàn đồng. Ngay trước cửa là chuồng trâu, chuồng ngựa lầy lội, hôi hám. Trải bảo mình người Mông họ quen với lối sống như thế này đã bao đời nay, được như thế này đã là tiến bộ lắm rồi. Cuộc sống vất vả kéo theo lối sống không vệ sinh, thiếu văn hoá, lâu rồi thành quen, một thói quen khó bỏ. Anh em cán bộ chiến sỹ của đồn phải rất vất vả mới được như thế này, người Mông bao đời chạy loạn rồi du canh du cư, cả đời chỉ lo cái ăn làm sao còn thời gian lo cho ngôi nhà mình ở.
Chiều thấy trời nhiều mây Trải bảo phải về ngay nếu không sẽ gặp mưa lũ. Vì không có nhiều kinh nghiệm ở rừng nên mình nghe Trải nhưng cứ bán tín bán nghi. Trải đi nhanh lắm, mình phải chạy gằn mới kịp. Về đến bờ suối Ngàn thì trời đổ ập mưa xuống. Nghe tiếng mưa rơi ào ào từ xa, mình đang định xắn quần lội qua thì Trải nắm tay cứ thế lôi đi miệng giục chạy cho thật nhanh. Chạy lên được đỉnh đồi, ngoái đầu nhìn lại, quãng đường mình và Trải vừa chạy qua nước lũ đã tràn về réo ầm ầm, rồi đất đá, cây cối, các con vật bị lũ cuốn trôi, tiếng kêu thảm thiết. Nhanh như lũ, các cụ nói chẳng sai, chỉ trong vài phút, tất cả một vệt rừng chạy bên con suối Ngàn ngập chìm trong bùn đất và đá núi. Mệt, sợ mình chẳng còn biết ra làm sao nữa, nhìn xuống chân, lúc này mới biết, đôi giày tuột mất từ lúc nào, các ngón chân tướp táp, tê dại. Ngồi tựa lưng vào gốc cây, tự nhiên cứ thế là mình khóc.
Mở mắt ra không thấy Trải đâu. Chưa bao giờ trong đời mình thấy sợ như thế này. Vốn nổi tiếng là con nặc nô trong đám bạn, mẹ vẫn thường nói mình bà mụ nặn nhầm, nứt giời rơi xuống nhưng tự nhiên mình lại nghĩ đến cái chết. Có phải chăng khi con người cận kề cái chết thì lại thèm sống, cái bản năng ham sống sợ chết trỗi dậy, nhận ra rằng cái cuộc đời mà khi sống cho nó là khốn nạn đáng sống và đáng hưởng thụ lắm. Vật chất là vô hạn, đời người là hữu hạn, cũng chính vì cái hữu hạn ấy mà lòng tham của con người đã trở thành vô hạn. Không biết Trải đi đâu để một mình mình ở lại đây thế này. Mình mặc kệ cho số phận đưa đẩy đến đâu thì đến, sống về chết cũng thôi. Cái lỳ lợm, phó mặc bất cần đời trong mình nhủ thế.
Cái ý nghĩ phó mặc cho may rủi số phận vừa loé lên thì mình nghe tiếng động sau lưng. Tiếng động của một vật nặng rơi xuống. Mình sợ quá, nhắm nghiền mắt lại. Sau lũ thường có lở núi, chắc đá rơi, thế này thì mình cầm chắc cái chết rồi. Mình muốn chạy mà không chạy được. Mình muốn lăn mà không lăn được. Mình lúc này không khác gì một khúc gỗ vô tri vô giác.
– Tối rồi, chị Lam Hạnh đã thấy đói chưa? Tối nay phải ở lại đây thôi. Không còn đường về đơn vị nữa. Tôi vừa leo lên trên kia quan sát, lũ vây kín bốn xung quanh đây rồi.
Tiếng động như đá rơi là Trải nhảy từ trên cây xuống. Lúc này sao mà mình thấy Trải vô duyên thế. Đùa cợt không phải lối. Sau lời mang tính chất thông báo Trải để mình ở lại đi đâu không rõ. Vừa giận vừa bực với Trải lại lo đêm nay không biết ra sao nên mình mặc, lờ te không thèm hỏi cho bõ tức. Hình như Trải không quan tâm đến chuyện đấy, cứ làm, cứ nói, cứ thông báo. Rồi Trải về ôm theo một bó củi hì hụi nhóm lửa. Ngày xưa khi loài người tìm ra lửa là tìm ra sự sống sung sướng thế nào thì bây giờ, trên đồi hoang, giữa mưa lũ mình cũng có cảm giác như thế…
* *
*
Nghe tiếng động Hạnh tỉnh lại. Tàu đang vào ga, cô đưa tay vuốt cho tóc gọn về sau. Hạnh ngủ từ bao giờ cô cũng không rõ nữa. Hành khách lục tục lấy đồ, tiếng bánh xe miết trên đường ray nặng nề rờn rợn. Những âm thanh hỗn độn ỳ xèo tạp giao vào nhau khó chịu của cái thói tranh giành con người. Mặc dù đã đi nhiều nơi nhưng không làm sao Hạnh có thể quen được lối sống như tranh như cướp ở các bến tàu bến xe. Lên tranh lên, xuống tranh xuống, xô vai thích cánh để hơn người dù chỉ là bước chân hay vài ba giây trong cả một chuyến đi. Cũng chính vì sự khó chịu ấy nhiều khi Hạnh chỉ thích đi công tác bằng xe máy. Vất vả đấy, nguy hiểm đấy nhưng Hạnh được tự do, được chủ động thời gian và nhất là không phải chứng kiến thói bon chen, ganh ghét tranh nhau của con người trong mớ hỗn độn vì tiền, vì miếng cơm manh áo. Cả cuộc đời con người bó gọn trong cơm áo gạo tiền không làm sao thoát ra được, nó như vòng kim cô vô hình xiết chặt lấy con người mà hành, mà xoay vần. Hạnh sợ, nỗi sợ hãi cũng vô hình vì sự tha hoá của nó với con người.
– Cô ơi, tàu về ga cuối rồi ạ. Cô có gì nặng đưa cháu mang giúp cho. Cô mệt hay sao mà ngủ say thế.
Hạnh hướng về phía có tiếng nói. Người lính đã xốc ba lô lên vai đang có ý chờ. Trong cái thế giới ai cũng bo bo lo cho phần mình, lời hỏi sự quan tâm chỉ là rất nhỏ nhưng Hạnh thấy vui và thanh thản biết nhường nào. Nhiều khi Hạnh có cảm tưởng như cô đang tích cóp từng tý một niềm vui nhỏ nhoi để mà sống mà làm việc. Hạnh cười thân thiện.
– Cô cám ơn.
Hạnh với tay lấy chiếc va ly. Chiếc va ly của một thời đã xa, mấy bộ đồ cũng của một thời đã qua và một con người của một thời không ai còn nhớ, cái thời mà lớp trẻ bây giờ khi nghe kể lại cứ nghĩ chuyện cổ tích hay như câu mở đầu ngày xửa ngày xưa làm vậy.
* *
*
Sáng ra, khi lớp sương mỏng như tờ giấy còn bay lảng vảng trên các ngõ ngách phố núi Hạnh đã vội xuống quầy lễ tân trả phòng và thanh toán. Cô lễ tân nhà nghỉ tay dụi mắt ngáp dài mệt mỏi. Hôm qua lúc trên tàu Hạnh đã tranh thủ hỏi biết được đường lên đồn bây giờ không còn phải đi bộ như những năm trước, chỉ có điều xe rất ít chuyến, có khách thì đi, vắng khách thì thôi, chẳng có giờ giấc nào cả. Người lính, bạn đường và cũng là người mách cho cô biết sự đổi thay của vùng đất mà Hạnh không biết gọi nó là vùng đất như thế nào trong cuộc sống của riêng cô. Sau khi hướng dẫn tận tình anh thở dài nửa như than vãn nửa như lời tâm sự rằng cuộc sống bây giờ ở trên vùng núi có đổi thay nhiều nhưng nó cũng mang theo những gì gọi là nét riêng, cái đặc trưng của người miền núi. Nào là tốc độ đô thị hoá ở các trung tâm thị xã, nào là những đổi thay ở các thị tứ. Các cô thiếu nữ dân tộc vẫn thích xuống chợ nhưng mà là để mua thỏi son hộp phấn từ tiền bán vài ba đôi gà, dăm ba yến ngô hay mấy quẩy tấu măng mai lặn lội trên rừng cả tháng trời mới có được. Họ cũng không còn thích mặc những bộ trang phục vốn rất được các dân tộc khác ưa thích yêu chuộng nữa mà thay vào đó là những bộ trang phục quần âu, áo tây, bộ cánh của thanh niên dưới xuôi. Nghe người lính kể, Hạnh không biết nói như thế nào cho phải. Nói gì miền núi, ngay thủ đô, trung tâm văn hoá của cả nước đấy cũng còn có biết bao cái phải bàn, phải xem xét về cái gọi là văn hoá. Có cái gì xung quanh đời sống chúng ta đây mà không là văn hoá. Bất giác Hạnh mỉm cười, những người lính như thế này liệu có phải là lớp người hoài cổ không. Đổi mới có thành công nhưng không tránh khỏi sự mất mát. Có cái thành công nào mà không phải trả giá nhất định, có niềm vui nào mà không có hy sinh, chỉ có điều cái giá ấy, sự hy sinh ấy được người ta nhìn nhận như thế nào và đọc tên nó ra sao mà thôi rồi đối xử với nó theo cái cách nào của con người vẫn làm.
Quả thật như người lính cho biết, con đường với những dốc là dốc bây giờ đã đi lại thuận lợi rất nhiều, ô tô có thể vào từng bản, không còn cảnh kẽo kẹt đi bộ chùn chân mỏi gối như những năm trước. Con đường mở ra những cánh rừng cũng lùi vào sâu hơn. Những chú gà rừng khoe mẽ, những đàn lợn sọc dưa vầy mình trong bùn đất, những chú chim có sải cánh to bay cắt mặt người cũng không còn thấy bóng. Nỗi lo nơm nớp ngày Hạnh đi bộ vào đồn năm xưa cũng không còn nữa. Tự nhiên Hạnh thấy nhớ, thấy tiếc cái cảm giác sờ sợ nhưng thanh bình trong lành ấy. Trách gì người lính đã đem tâm sự của mình nói cho Hạnh biết. Phải chăng muốn được vơi vợi đi những nuối tiếc mà cả cuộc đời người lính đã gắn bó với nó.
Không biết cái đêm trong rừng chạy lũ Trải cứ liều thì cô sẽ ra sao. Cuộc đời con người có những bước ngoặt không định trước là thế. Đã rất nhiều lần Hạnh cứ tự vấn, một nam một nữ trong rừng lạnh, xa xôi không người biết, cái khao khát bản năng chẳng lẽ bị chế ngự bởi cái kỷ luật vô hình mà hơn sắt thép ấy. Trải là ai, cô là ai, thần thánh hay người trần mắt thịt. Nếu ngày đó là bây giờ thì sẽ ra sao. Có nhiều đôi va vào nhau là coi như xong mọi chuyện. Với lớp thanh niên bây giờ có cái gì thiêng liêng hơn cái họ cần, họ thích mà có được. Sự đổ đốn của con người do đâu, phải chăng do cơ chế thị trường mà bấy lâu nay mọi người vẫn hằng tâm niệm. Có phải chăng, hình bóng Trải trong lòng Hạnh bao năm qua là bởi không có cái sống hiện đại, sống gấp mà có được. Sự trong trẻo nghiêm túc đến thánh thiện đã nâng con người lên một tầm cao mới, tầm cao của những kẻ tri sỷ.
…Hì hụi nhóm lửa, Trải cầm gậy đi một vòng. Sau lũ rừng như hoang lạnh hơn. Bầy rắn, rết, chồn, cáo, chuột dũi tìm lên gò cao ẩn nấp. Chúng bò, trườn, bám đuôi nhau, chui rúc vào lá rừng, qua khe, qua cành cây tranh nhau tìm vào hang vào hốc. Chúng cắn xé, tranh giành sự sống nơi ẩn nấp. Trong mùi ẩm mốc mục ải của lá rừng lẫn cả mùi máu của bầy thú tranh nhau trú ngụ. Mệt, sợ, chán chường mình ngồi tựa gốc cây ngủ mặc Trải dọn lá quanh đống lửa, kiếm củi. Có mùi gì thơm lắm. Bản năng của bầy thú ăn thịt, cái dạ dầy lép kẹp đã đánh thức mình dậy. Trong tất cả các loài vật có mặt trên trái đất, con người, loại động vật cao cấp nhất có lẽ nhờ bộ não phát triển, nhờ biết ác tiêu diệt các loài thú khác nên tồn tại và phát triển không ngừng. Lúc đầu còn e ngại rụt dè mình đưa tay nhận những miếng thịt Trải dúm trong chiếc lá cuốn như tổ sâu nâng lên ngượng ngập không dám ăn. Không nói, không mời mọc, không ân cần, không giải thích Trải cứ bốc từng miếng ăn ngon lành. Mùi thơm của thức ăn, sự thúc dục của dạ dày mình không thể cưỡng lại nổi sự đòi hỏi phải sống. Trong hai điều kiện, ăn bẩn để sống, nhịn ăn để sạch sẽ và nhận lấy cái chết thì đã là con người, không dại gì nhận lấy cái chết được tiếng là sạch sẽ mà không ăn bẩn. Lằn ranh giới giữa bẩn và sạch sẽ cũng chỉ là tương đối. Ai dám bảo cái đang đưa lên miệng đã là sạch, ai dám nói cái không cho vào miệng đã là bẩn. Trong bẩn có sạch, trong sạch có bẩn, chả thế mà, trong hoạ người ta vẫn tìm thấy phúc, trong phúc vẫn tìm thấy hoạ, trong rủi vẫn tìm thấy may đó sao. Tự triết lý, tự viện dẫn mình nhón từng miếng ăn. Vừa ăn mình vừa đưa mắt nhìn Trải. Qua ánh lửa lập loè, khuôn mặt Trải hằn chỗ sáng chỗ tối chập chờn, ẩn hiện những nỗi buồn, sự bi ai sâu thẳm, một nỗi buồn đóng băng trong vùng sâu ký ức.
Đêm sâu, thật sâu, sự mệt mỏi bã bời cũng không làm sao kéo mí mắt mình cụp xuống được một lần nữa. Phần cái đói không còn sôi réo đòi ăn, phần mình cũng đã tranh thủ chợp mắt được một lúc, phần chút cảnh giác đàn bà vì sự trinh tiết đã làm cho đôi mắt trở nên tỉnh táo. Trong mớ kiến thức kiếm được ở nhà trường, trong đống sách vở đọc được ở thư viện, trong bề bộn những kinh nghiệm cóp nhặt đường đời mình không thể nghĩ rằng giữa cuộc sống rực màu hồng vẫn còn một cuộc đời như Trải.
Vốn quê Trải ở một vùng đồng bằng chim bay mỏi cánh, cây lúa làm nên đất anh hùng, con người anh hùng. Cây lúa làm nên những bài ca vang vọng cho muôn đời. Khuôn mặt người sáng lên, nụ cười người rạng rỡ. Cây lúa có thể làm rạng danh cho nhiều người nhưng không thể lo cho một cá thể. Ngày đó gia đình Trải sinh sống bằng nghề chài lưới, cả nhà mười một mạng người tất tật từ ăn uống, ngủ nghỉ, vệ sinh đều gói gọn trong chiếc thuyền chưa đầy chục mét vuông. Ăn từ sông, uống từ sông và chết cũng từ sông. Miếng ăn có được từ con cá con tôm, đời người sinh bệnh lão tử đều vướng vào mắt lưới, lưỡi câu. Trẻ nhà chài lên ba nhìn tăm biết cá, nhìn sóng biết gió, nhìn mầu nước biết độ nông sâu, nhưng dắt con trâu đằng trước hay phía sau thì chịu, vốc nắm gạo trên tay không biết nó là gạo gì, khô hay dẻo, cứng hay mềm. Mang tiếng là người ở vùng lúa nhưng cây lúa khi nào thì con gái, lúc nào làm đòng, trổ bông, vào mẩy, đỏ đuôi, chắc hạt mảy may không biết một tý gì gọi là. Sống ư nghiệp, tử ư nghiệp, phận ai nấy lo, phúc ai nấy làm, cả nhà chỉ chuyên tâm chài lưới mà không bao giờ quan tâm đến các nghề xung quanh. Ấy là thói quen sinh hoạt của người dân chài nhưng thực tình ra cả ngày tay chèo quăng chài thả lưới, lo miếng ăn quắt mặt, cháy da, tối về còn hơi sức đâu mà để ý đến chuyện người khác.
Năm đó theo tiếng gọi ba ngọn cờ hồng, người người vào hợp tác, nhà nhà vào hợp tác, khí thế tiến lên chủ nghĩa xã hội tưởng chừng nắm trong tầm tay. Phần thì cả làng cả nước vào hợp tác chẳng thể một mình đứng ở bên ngoài, sống có láng giềng, chết có chung nghĩa địa. Phần vì con cái đã lớn muốn được bằng bạn bằng bè. Thanh niên trai tráng, nam nữ tối tối gọi nhau ý ới học hát học hò, sinh hoạt đoàn đội rầm làng vang tổng chẳng lẽ lại để con cái ro ró trong gian thuyền kém chị kém em. Nghĩ cái đại cục, lo cái tiểu tiết người bố quyết định bán ngôi nhà thuyền mang tiền đóng góp vào hợp tác xã tín dụng. Lấy tiền dành dụm bao năm làm ăn tích cóp mua gian nhà nhỏ trong làng đưa vợ con lên bờ vào hợp tác xã nông nghiệp. Làm đơn xin vào hợp tác xã mua bán để tháng tháng có sổ xếp hàng mua lít dầu, bánh xà phòng, cân muối, mét vải diềm bâu dày như mo nang như người làng, đi đâu làm gì cũng có quyền ngửa mặt mà không lo phải tránh né sợ sệt. Biết vất vả vì không quen đồng áng nhưng người bố có niềm tin sắt đá rằng, phàm những gì ở đời thiên hạ làm được thì mình cũng làm được. Bà vợ sợ chồng, thương con lo chỉ để bụng không dám nói ra, cả ngày hết đi ra rồi lại đi vào thở ngắn thở dài phiền não, duy chỉ có con cái, đứa nào đứa ấy mặt mày hớn hở như vớ được vàng.
Thời gian đầu tuy không quen việc nhà nông nhưng dẫu sao cái vui lấp đầy nặng nhọc, số tiền dư dôi còn lại cũng đủ trang trải cái ăn cái uống không đến nỗi chật vật. Miệng ăn núi lở, gắng gượng hết sức nhưng người bố cũng nhận ra rằng nếu cứ duy trì mãi cái lề lối làm ăn kẻng vác cuốc đi, còi rúc vác về thì chẳng bao lâu nữa gia đình sẽ khánh kiệt. Công đi làm cả ngày vài ba lạng thóc mà phải đến mùa mới được lĩnh. Đã thế không quen làm, việc không thạo, chấm điểm ngày công không bằng đứa trẻ lên mười, kinh tế nhà người măng mọc còn đằng này củ cầy ăn xuống.
Để cứu vớt tình thế kinh tế gia đình người cha để vợ con làm nghề nông còn mình xoay về nghề cũ nhưng không phải chài lưới trên sông mà là làm vó lưới đem bán cho những gia đình vạn chài khác. Tuy là nghề truyền thống ông cha để lại nhưng làm ra đem bán lại trở thành tư thương, con buôn, tư tưởng tiểu tư sản, kẻ bóc lột đáng nguyền rủa. Một xã hội ở đâu, chỗ nào cũng chỉ thấy tinh thần làm chủ tập thể, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân thì chuyện buôn bán chỉ lo làm giàu cho gia đình, bản thân quả là lạc lõng, xã hội không thể chấp nhận.
Tuy bị người làng nhìn với con mắt khác song đời sống gia đình có chiều hướng no ấm trở lại. Thóc lúa từ công điểm dẫu không đủ ăn vài tháng song đã có tích luỹ khi tháng ba ngày tám lúc nông nhàn. Bát cơm dù phải độn tới ba phần tư củ dong củ khoai nhưng vẫn không phải chịu cảnh đứt bữa, húp cháo cầm hơi. Gia đình ông có người cháu, con chị gái, gọi ông bằng cậu, vốn trước đây cũng làm nghề buôn bán vó lưới nhưng khi phong trào vào hợp tác xã phát triển rầm rộ hăng hái tự nguyện làm đơn xin bỏ nghề buôn bán kiếm một chân vào bán cửa hàng hợp tác. Thấy người cậu làm ăn có chiều phát đạt, hợp tác lại đang thiếu chân chủ nhiệm, chẳng biết vì mục tiêu hay động cơ gì người cháu đã ngầm báo cho cán bộ thuế phục bắt hết hàng của ông. Bao nhiêu vốn liếng ông đã đem mua hết hàng nên khi bị bắt trở thành tay trắng. Tuy ông không phạm tội gì nhưng hàng vẫn bị cơ quan thuế thu giữ. Dăm lần bảy lượt ông lặn lội làm đơn từ xin lại nhưng không biết lý do gì hàng vẫn không được trả. Hàng vó lưới se từ sợi cây gai khi bị thu giữ không có nhà kho bảo quản, quăng quật ném xó nhà, góc khuất ẩm ướt chẳng bao lâu sợi bục, mối xông. Của đống tiền sau thời gian thu giữ khi trả lại, nhận về chỉ còn biết cho vào chuồng lợn làm phân bón ruộng. Trời thì cao, đất thì dày, không biết bắt đền ai, mà có bắt đền thì cũng chẳng được vì cái lý người ta thu vó trả vó có làm mất cái nào đâu, thu bao nhiêu trả bấy nhiêu, còn mục nát đâu phải trách nhiệm của cơ quan thu giữ. Thời gian nắng mưa đến con người còn già yếu đi huống hồ vó lưới làm bằng sợi gai, mục nát là quy luật tất yếu. Quy luật là gì, tất yếu khách quan là gì ông nào có biết. Đến chữ nào là chữ o, chữ a ông còn không biết huống hồ lý luận cao siêu thế khác gì đàn gẩy tai trâu. Cán bộ bảo đúng thì đúng, nói sai ông biết rằng sai. Người trần mắt thịt như ông làm sao mà biết được thế nào là sai, là đúng. Ông cứ tự an ủi của đi thay người, sống có phúc rồi có phần, trời có mắt rồi đến ngày gia đình ông cũng được mở mày mở mặt với thiên hạ.
Cái năm ông bị thu giữ mất sạch vốn liếng phải đúng năm bão lũ tràn về đê vỡ mùa màng thất bát, mười phần không thu được một. Hoạ vô đơn chí phúc bất trùng lai, mùa màng thất bát đã đành lại phải chịu thêm cảnh dịch bệnh do lụt lội gây ra. Không tiền, không gạo, cả làng cả nước đều nghèo đều khổ như mình biết chạy vay ai. Mấy đứa lớn con ông không sao, nhưng mấy đứa bé lại trúng dịch tả, người ngợm như chiếc giẻ vắt vai, chỉ còn da bọc xương chờ mang đi bó chiếu. Để cứu lấy gia đình, cứu lấy những đứa con qua đận gieo neo, ông dắt cả nhà đi ăn mày. Rồi vào một đêm, đứa con út của ông vừa đói vừa lên cơn sốt cao có nguy cơ không qua khỏi. Thương con ông đánh liều sang nhà hàng xóm vào ổ gà ấp trong bếp lấy trộm quả trứng mang về luộc để nếu nó có chết cũng không thành ma đói. Khi ông vừa cầm quả trứng trên tay thì chẳng may bị gia chủ bắt được. Nghe ông dãi bầy tuy người hàng xóm thông cảm bỏ qua nhưng vì cái liêm sỷ của con người, cái danh của cả gia đình, điều tiếng nanh nọc của đời, thứ nhất ăn cắp trứng gà, thứ nhì đánh rắm đi qua mặt người, ngay đêm hôm đó ông dắt cả nhà bỏ làng ra đi. Vì làm nghề chài lưới, ông đưa vợ con cứ ngược sông mà đi, có gì còn dựa vào sông kiếm sống. Đi hết tháng này qua năm khác, gia đình ông cũng đến được vùng thượng nguồn, nơi chỉ có rừng cây và đá núi. Ông cùng vợ con lại bám vào sông vào suối mà sống. Những năm tháng làm nghề nông giúp ông và gia đình biết phát nương làm rẫy. Cứ thế gia đình ông thoát cảnh nghèo hèn lam lũ. Khi kinh tế tạm ổn, ông dịch dần gia đình về phía dưới, nơi có trường có lớp để cho con cái được học cái chữ như người. Cái người con út tưởng giời bắt đi ngày nào do đói do dịch bây giờ đang ngồi trước mặt mình trên đồi, giữa rừng vắng trong lần chạy lũ thoát chết đấy.
Đêm sâu, rừng thâm, hơi núi phả ra lạnh lẽo như ám khí. Tự nhiên mình thấy sợ, một cái sợ vô hình như đứa trẻ nghe người lớn kể chuyện ma làm vậy. Mình khóc, khóc vì sợ và khóc vì một quãng đời lầm lụi của Trải, vì những trái ngang của đời lắt léo không ai đoán định được. Cũng rất tự nhiên, bản năng của người phụ nữ mách bảo mình chở che. Mình muốn được sẻ chia, gánh đỡ dù chỉ một phần tủi cực mà Trải đã chịu. Mình ôm Trải vào lòng, mặc cho nước mắt chảy xuống bờ vai khét mùi mồ hôi, lấm láp phận người.
* *
*
Đến chân dốc Mất Em con đường ô tô ngoặt sang hướng khác. Hạnh xuống xe sửa sang lại quần áo rồi túc tắc đi bộ, men theo rừng cây bên đường. Đây là rừng mới trồng. Ngày trước Hạnh lên, con đường này còn nhỏ chỉ đủ lọt bước chân ngựa qua. Lên được đến đỉnh dốc, Hạnh ngồi nghỉ. Kia là chỗ Trải đã phát hiện ra cô. Một thoáng chuyện cũ ùa về, Hạnh đưa mắt quan sát. Như một phản xạ tự nhiên Hạnh đứng lên đi vào lùm cây.
– Ai ra ngay! Một giọng hỏi nhưng rất kiên quyết.
– Tôi. Tôi đây.
Hạnh bước ra. Một thoáng ngỡ ngàng, cả Hạnh và người lính cùng nhận ra nhau. Theo chân người lính về đồn. Những khu nhà vẫn như ngày xưa, có khác chăng những hàng cây qua năm tháng lớp vỏ đã trở nên mốc hơn, sần sùi, phía trên cao, những dây tầm gửi bám vào thân nhằng nhịt. Nghe chuyện Hạnh kể mọi người trong đồn ai cũng quý coi cô như người thân, quan hệ ứng xử nhà báo với cán bộ chiến sỹ không còn ranh giới. Tranh, người lính làm bạn đồng hành với cô trên tàu chính là con trai của Trải.
Gặp được con trai của Trải, Hạnh rất vui. Tranh đã kể cho cô nghe biết bao chuyện. Hạnh cũng không ngờ rằng đêm tránh lũ năm xưa đã làm cho Trải gặp bao phiền toái. Con người có thể chết vì đói nhưng con người chết vì điều tiếng trước cả khi chết đói. Đói làm cho con người chết về thể xác, sự đau đớn không thể bằng con người chết về tâm hồn và mất lòng tin. Người lính điều thiêng liêng nhất là lòng tin, khi lòng tin mất đi thì họ không thể sống được. Một trai một gái trong rừng cả đêm với nhau, ai người làm chứng, ai người dám bảo đảm sự trong sáng. Dẫu không ai nói ra nhưng từ cái nhìn nghi hoặc, lời xì xào đàm tiếu, sự nghi ngờ trong đơn vị đã đánh gục Trải. Con người ý chí có lớn đến đâu cũng bằng da bằng thịt. Không thể thanh minh và cũng chẳng cần thanh minh, Trải làm đơn xin phục viên. Cũng có một số người khuyên Trải về tìm Hạnh để làm cho rõ ngọn ngành nhưng Trải đã từ chối. Với Trải, người con gái danh dự và phẩm tiết quý hơn sự sống. Tìm Hạnh lên Trải sẽ làm rõ được lòng mình nhưng còn Hạnh, liệu người đời có còn tin sự trong trắng của cô nữa không. Có lẽ cái liêm sỷ của con người lớn nhất là biết chịu thiệt để người khác vẹn toàn. Lợi cho mình mà hại người khác thì không có cái vô liêm sỷ nào bằng. Và Trải tin, một niềm tin sắt đá rằng sẽ có ngày Hạnh quay trở lại. Chuyến đi vừa rồi của Tranh cũng là đi tìm Hạnh. Mặc dù Trải đã không cho phép nhưng Tranh muốn cha mình được thanh thản. Những điều Tranh biết được về cha mình cũng là qua câu chuyện của bạn bè Trải kể lại.
* *
*
Lên đến đỉnh Mất Em, Hạnh nhìn lại phía đồn. Trải ơi, em đã trở lại đây. Những gì em ghi lại được trong chuyến công tác đầu tiên cùng tất cả vui buồn, sướng khổ, nguy hiểm, may mắn và cả những nỗi đau mà anh đã phải giấu kín trong lòng đưa cho Tranh rồi. Em biết, bao nhiêu năm qua anh đã không cần đến cuốn sổ này, kể cả là sự có mặt của em thì bây giờ, những điều này liệu có ý nghĩa gì. Ngày ấy, khi em trở về Hà Nội, anh tiễn đến dốc này. Em hỏi tại sao dốc có tên Mất Em. Anh bảo đã có rất nhiều người, có cả những cô là người yêu của anh em cán bộ chiến sỹ trong đồn. Sau khi lên đồn trở về dưới xuôi, vượt qua dốc này rồi chẳng có mấy người trở lại. Ngày ấy em không tin, em chỉ nghĩ là anh lại trêu đùa hay nói thế để có ý nhắc khéo em thôi. Hôm nay ngày cả gió, cả cánh rừng xào xạc lá, những chiếc lá như cố vươn về phía trước vẫy vẫy. Hạnh lấy máy. Số máy của Thường. Hạnh bấm phím ngắt rồi nhét sâu xuống tận đáy túi. Hạnh cũng có cần phải nói cho Thường rõ về lý do tại sao thằng Ba nó giống Trải không. Chiếc xe khách ậm ạch chạy qua phía chân dốc. Người phụ xe thò tay vẫy vẫy. Hạnh xoay người nhìn về phía đồn. Lá cờ Tổ quốc như đốm lửa lẫn trên nền trời. Chiếc xe khách đã khuất, vệt bụi loãng dần, con đường hiện ra nhỏ như sợi dây thừng của người thợ sơn tràng buông từ trên núi xuống. Những chiếc dây này đưa người thợ vượt núi. Bộ áo thụng kiểu Hồng Kông màu cánh sen trông xa như vết cọ của người hoạ sỹ vô tình làm vương vào bức tranh miền sơn cước. Bao nhiêu năm Hạnh mang thông tin đến cho mọi người nhưng còn thông tin về chính mình Hạnh đã lãng quên.